Tin Quốc Phòng

TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO HỌC SINH, SINH VIÊN HIỆN NAY

TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO HỌC SINH, SINH VIÊN HIỆN NAY

Học viện An ninh nhân dân - Bộ Công an

 

Việt Nam là đất nước đa tôn giáo và có hệ thống tín ngưỡng vô cùng phong phú. Lịch sử đã cho thấy sự tác động tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, tín ngưỡng, tôn giáo là lĩnh vực nhạy cảm, thu hút sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, gây mất ổn định xã hội, đe dọa an ninh quốc gia, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì thế, trong công tác giáo dục quốc phòng và an ninh nói chung và chương trình giáo dục quốc phòng, an ninh cho học sinh, sinh viên hiện nay nói riêng, vấn đề đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam luôn được quan tâm, đề cập. Trong đó, nhận thức, đánh giá đúng về thực trạng tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo.

Ở Việt Nam, mỗi dân tộc đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân gian như thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ thành hoàng, thờ những người có công với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng tôn giáo nguyên thủy, như Tô Tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo,... Trải qua thời gian, các tôn giáo lớn trên thế giới lần lượt xuất hiện ở Việt Nam. Ban đầu là Phật giáo (được cho là đến Việt Nam vào cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III sau công nguyên), tiếp đến là Công giáo (giữa thế kỷ thứ XVI), Hồi giáo (cuối thế kỷ XIX) và muộn hơn cả là đạo Tin Lành (vào Việt Nam năm 1911). Đến tháng 5/2024, theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, ở Việt Nam có 43 tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân hoặc cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo thuộc 16 tôn giáo khác nhau; với hơn 27 triệu tín đồ (chiếm trên 27% dân số cả nước); trên 54 ngàn chức sắc; 135 ngàn chức việc và gần 29,8 ngàn cơ sở tôn giáo. Ngoài 43 tổ chức tôn giáo trên, ở Việt Nam còn có một số nhóm tôn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật giáo hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào (chủ yếu là các tổ chức Tin Lành).

Sự đa dạng của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam còn được phản ánh trên các phương diện cụ thể, như: quy mô, nguồn gốc hình thành, tín đồ, hoạt động... Chính vì vậy, nếu không có một chính sách điều tiết tốt, sự khác biệt của các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau ở Việt Nam sẽ rất dễ có nguy cơ dẫn đến mâu thuẫn, xung đột như những gì đã và đang xảy ra ở một số nước có đặc điểm tôn giáo tương đồng với nước ta.

Nhận thức rõ vai trò của tín ngưỡng, tôn giáo, trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhất quán chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ngay từ ngày mới thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 234/SL khẳng định: “việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”.

Kế thừa, phát triển quan điểm chỉ đạo của Người, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện quan điểm, chính sách, pháp luật để nhân dân được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình trên cơ sở pháp luật. Nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng đã được ban hành góp phần giải quyết các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo; xây dựng niềm tin của đồng bào tôn giáo với Đảng, Nhà nước. Trong giai đoạn mới, Đảng, Nhà nước ta chủ trương “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo,... tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo; động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[1]. Đồng thời, khẳng định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Trên cơ sở đó, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã ra đời năm 2016. Đây là sự cụ thể hoá những quan điểm mang tính đột phá lần thứ ba về tư duy về tôn giáo.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2021) tiếp tục xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm để đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới đó là tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo, thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Báo cáo Chính trị của Đại hội XIII nêu rõ: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ “sống tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo và hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá đảng, nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết dân tộc”[2]. Văn kiện Đại hội xác định tôn giáo là nguồn lực xã hội và nhấn mạnh cần “phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”; “nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”. Đây chính là sự khẳng định lại những điểm đột phá trong pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng năm 2016.

Quan điểm, chính sách tôn giáo đúng đắn, cởi mở của Đảng đã làm cho tuyệt đại đồng bào có đạo và đa số chức sắc tôn giáo không chỉ đồng tình, ủng hộ mà còn phấn khởi, hăng hái, tích cực tham gia vào công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước; tự giác chấp hành nghiêm các qui định của pháp luật, thực hiện có hiệu quả các chính sách, chương trình phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, tăng cường sức mạnh quốc phòng- an ninh, góp phần cùng toàn dân giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Mặc dù sự hình thành, phạm vi ảnh hưởng và tác động chính trị - xã hội của các tín ngưỡng, tôn giáo không giống nhau, nhưng tựu chung đều đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các tín ngưỡng, tôn giáo luôn quan tâm đến hòa bình, hòa hợp, lên án những bất công, những điều xấu nên giá trị đạo đức, văn hóa tôn giáo luôn góp phần giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Cộng đồng tôn giáo là những tổ chức có tính tự quản cao, có ý thức trách nhiệm trong việc giữ gìn an ninh, trật tự, góp phần bài trừ một số tập tục lạc hậu, hạn chế thanh, thiếu niên vi phạm pháp luật.

Các tôn giáo đều xây dựng đường hướng hành đạo riêng, phù hợp với đạo lý của mình, như: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” của Phật giáo, “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc” của Công giáo, “Sống phúc âm phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc” của Hội thánh Tin Lành, “Nước vinh, đạo sáng” của Cao Đài, v.v. Những đường hướng này vừa phù hợp với giáo lý, truyền thống dân tộc, vừa phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và xu hướng phát triển của thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Những năm qua, các tôn giáo đã cùng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp và toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh. Các tín ngưỡng, tôn giáo đã thể hiện giá trị đạo đức, văn hóa trong triết lý, giáo lý của mình trong thực tiễn bằng việc thực hiện tốt các phong trào do các bộ, ngành và các địa phương phát động, như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở khu dân cư, “Xây dựng chùa cảnh tinh tấn, gương mẫu”, “Xây dựng xứ, họ tiên tiến, gia đình Công giáo gương mẫu”, hay các phong trào phòng, chống tội phạm, ma túy, tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống mới trong việc hiếu, hỉ và lễ hội; xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước của thôn xóm, khu dân cư... Trong phong trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh ở nhiều địa phương, như Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Hà Tĩnh, Đồng Nai, Cà Mau,... đồng bào tôn giáo đã tự nguyện đóng góp hàng trăm tỷ đồng và hàng trăm nghìn ngày công, hiến đất, nguyên vật liệu làm đường giao thông nông thôn, xây dựng trường học, khu vui chơi, sinh hoạt văn hóa, thể thao,... góp phần xây dựng quê hương ngày càng khang trang, sạch đẹp. Các hoạt động từ thiện xã hội được đông đảo chức sắc, nhà tu hành và tín đồ tôn giáo tích cực thực hiện dưới nhiều hình thức, như hỗ trợ vốn sản xuất, mở trường, lớp tình thương, xây dựng trung tâm bảo trợ xã hội, cấp học bổng, khám chữa bệnh, hỗ trợ thiên tai, hiến máu, giúp đỡ cho những người có hoàn cảnh khó khăn; cứu trợ an sinh xã hội trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19.

Chức sắc, chức việc các tôn giáo ở Việt Nam rất đông đảo, là đội ngũ trí thức, có ảnh hưởng và hiểu biết sâu rộng trên các lĩnh vực liên quan đến đời sống xã hội, như giáo dục, văn hóa, y tế và ngoại ngữ... Đây là lực lượng có đóng góp đáng kể trong việc phát triển văn hóa - xã hội, phong trào xây dựng nông thôn mới, phát triển văn hóa cơ sở, đặc biệt là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Trong sinh hoạt tôn giáo, các chức sắc đã khuyên bảo tín đồ chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, tham gia hiệu quả và có trách nhiệm trong các hoạt động kinh tế - xã hội - văn hóa, sống "tốt đời, đẹp đạo".

Tình hình thế giới trong những năm gần đây tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo, tác động trực tiếp đến sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Về cơ bản, những vấn đề chủ yếu tác động đến các quốc gia, trong đó có Việt Nam gồm: (1) hòa bình, hợp tác và phát triển là nguyện vọng và là đòi hỏi bức thiết, là xu hướng chung của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới; (2), cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế phát triển mạnh mẽ, ngày càng gắn chặt với nhau tạo thành một hợp lực, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất toàn cầu; tác động đến mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, quốc phòng, an ninh của mỗi quốc gia, dân tộc; (3), các nước lớn tiếp tục giữ vai trò chi phối cục diện thế giới, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiềm chế và ngăn chặn lẫn nhau; (4), tình hình khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, khó lường.

Trong bối cảnh đó, vấn đề quốc phòng và an ninh của Việt Nam phải đương đầu với những khó khăn, thách thức liên quan đến vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Cụ thể là:

Các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá đất nước. Trong chiến lược "diễn biến hòa bình" chống Việt Nam, các thế lực thù địch, đối tượng phản động trong và ngoài nước luôn chú ý lợi dụng vấn đề tôn giáo, coi đây là một trong những mũi tiến công chủ đạo nhằm thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam. Chúng coi tôn giáo là cái “cớ” để khai thác, nhằm xuyên tạc để chống phá Đảng, chế độ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại đoàn kết tôn giáo, gây chia rẽ, kích động hận thù hoặc tạo tâm lý hoang mang, lo lắng, gây tư tưởng chia rẽ, bạo loạn,... Một sự việc rất nhỏ, một mâu thuẫn bình thường trong lĩnh vực tôn giáo có thể bị thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc trở nên nghiêm trọng; một vụ việc tôn giáo xảy ra tại một khu vực, một địa phương cũng rất dễ bị khuếch đại thành vấn đề quốc tế; một sự kiện vốn chỉ là hiện tượng, nhưng có thể bị xuyên tạc trở thành bản chất; một vấn đề mang tính bộ phận, nhưng lại dễ biến thành toàn thể; một câu chuyện vốn rất bình thường, nhưng có thể bị biến thành phức tạp, xuyên tạc thành mang ý nghĩa chính trị.

Trong nhiều năm qua, những nhận định sai trái, xuyên tạc với thái độ thù địch và động cơ chính trị xấu vẫn thường xuyên xuất hiện, cho dù tình hình tôn giáo ở Việt Nam tốt đẹp, quyền tự do tôn giáo ngày càng được bảo đảm tốt hơn thì những luận điệu kiểu ấy vẫn phát tán và hoàn toàn không ăn nhập gì với thực tiễn đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Kỳ thực, các quan điểm sai trái, thù địch, kích động mâu thuẫn, xung đột,... đều đã được lập trình với rất nhiều phương án, kịch bản khác nhau để hướng đến mục đích cuối cùng là thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, là gây “cách mạng không tiếng súng”, nhằm công kích, chuyển hóa chế độ. Chiến thuật, chiến lược này không mới, nhưng nó nguy hiểm ở chỗ luôn âm thầm, rình rập, chờ thời cơ, kiểu “nước nhỏ lu đầy”, “mưa dầm thấm lâu”,...

Những năm gần đây, nhiều hiện tượng mê tín dị đoan cũng như hoạt động truyền đạo trái pháp luật có xu hướng gia tăng, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, biên giới. Điều đáng lo ngại là một số tôn giáo lạ, tà đạo, tạp giáo đã nhen nhóm phát triển nhanh như tà đạo "Vàng Chứ" trong dân tộc Mông, tà đạo "Thìn Hùng" trong dân tộc Dao ở Tây Bắc, tà đạo "Tin lành Đề-ga" ở Tây Nguyên và một số giáo phái khác ở Tây Nam Bộ... Sự xuất hiện của những tà đạo đội lốt tôn giáo cũng là vấn đề đáng lo ngại, tiềm ẩn nguy cơ đối với an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.

Như vậy, trước những vấn đề phức tạp của tình hình thế giới, khu vực; hoạt động lợi dụng tôn giáo nhằm chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch với nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc thì việc gắn kết chặt chẽ giữa tín ngưỡng, tôn giáo với quốc phòng, an ninh là một tất yếu và là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Trên thực tế, sự gắn kết này đã được thực hiện, đồng bào các tín ngưỡng, tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; các tổ chức tôn giáo tích cực tuyên truyền, giáo dục tín đồ yêu nước, chấp hành pháp luật; nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp, đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước về tôn giáo. Tuy nhiên, khi tôn giáo bị lợi dụng, kích động, nguy cơ tác động đến xã hội và con người cũng không nhỏ, nhất là đối với lĩnh vực an ninh, quốc phòng của đất nước. Vì vậy, việc nhận diện và đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo chống Đảng, Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời, từ góc độ quốc phòng, an ninh và từ những bài học trong thực tế, cần có những giải pháp thiết thực để phát huy sự gắn kết giữa tín ngưỡng, tôn giáo với quốc phòng, an ninh và hạn chế, loại bỏ những yếu tố tác động xấu đến sự gắn kết này; trong đó, giải pháp trước hết là từ công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên, quần chúng nhân dân trên cả nước.

Đối với công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên, để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo cần chú ý làm tốt những vấn đề sau đây:

Một là, nâng cao nhận thức cho học sinh, sinh viên về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của vấn đề gắn kết tín ngưỡng, tôn giáo với quốc phòng và an ninh ở Việt Nam hiện nay. Trang bị cho học sinh, sinh viên những nhận thức đúng đắn về tín ngưỡng, tôn giáo, nhận diện được các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm của thế hệ trẻ góp phần đảm bảo an ninh tôn giáo. Đây được coi là giải pháp quan trọng, có tính quyết định hàng đầu trong tình hình hiện nay. Để thực hiện hiệu quả giải pháp này cần phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên, báo cáo viên tại các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân; phát huy vai trò của đội ngũ truyền thông, các cơ quan thông tấn, báo chí, vai trò của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Tôn giáo Chính phủ, vai trò của lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân trong công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho học sinh, sinh viên về tín ngưỡng, tôn giáo. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến cho học sinh, sinh viên hiểu rõ về chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước về tự do, tín ngưỡng tôn giáo. Giáo dục, nâng cao nhận thức cho học sinh, sinh viên trong toàn quốc hiểu rõ âm mưu, phương thức, thủ đoạn lợi dụng vấn đề tự do, tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của học sinh, sinh viên góp phần đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo, vi phạm pháp luật; thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.

Hai là, trong Thông tư số 05/2020/TT-BGDĐT ngày 18 tháng 3 năm 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chương trình giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường trung cấp sư phạm, cao đẳng sư phạm và cơ sở giáo dục đại học trong đó quy định chuyên đề: “Một số nội dung cơ bản về dân tộc, tôn giáo, đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam” có dung lượng là 06 tiết, trong đó bao gồm 04 tiết lý thuyết, 02 tiết thảo luận. Trong thời gian tới Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể xem xét mở rộng phạm vi, tăng dung lượng chương trình lên cho phù hợp. Qua đó, giúp học sinh, sinh viên hiểu rõ hơn về dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, có được những kỹ năng, kiến thức cơ bản để nhận diện, tham gia đấu tranh phòng, chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam.

Ba là, tăng cường đổi mới phương pháp giảng dạy các chuyên đề, môn học có liên quan đến công tác giáo dục quốc phòng, an ninh nói chung và liên quan trực tiếp đến chuyên đề: “Một số nội dung cơ bản về dân tộc, tôn giáo, đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam". Việc xác định đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực được quán triệt là một yêu cầu cấp thiết trong Nghị quyết 29-NQ/TW khóa XI. Tạo khâu đột phá trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, huấn luyện, nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, gắn với hoạt động quản lý, rèn luyện sinh viên trong môi trường quân sự. Đặc điểm của giáo dục quốc phòng an ninh là kết hợp lý thuyết với thực hành, tăng thời gian nghiên cứu, tự học, tham quan, thực tế cho học sinh, sinh viên. Đây là môn học đặc thù nên có lý thuyết và có thực hành, vừa giáo dục chính trị tư tưởng, vừa rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí, tinh thần kỷ luật và huấn luyện kỹ thuật quân sự. Vì vậy, học sinh, sinh viên sau khi được trang bị kiến thức phải biết vận dụng vào thực tế. Việc dạy học theo định hướng phát triển toàn diện năng lực thực hiện không chỉ chú ý đến việc tích cực hoá người học về mặt trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện cho họ những năng lực giải quyết các vấn đề gắn với thực tiễn, những tình huống nghề nghiệp. Giảm bớt thời gian dạy lý thuyết; tăng thời gian nghiên cứu, tự học, tham quan, thực tế những địa bàn liên quan trực tiếp đến chuyên đề học tập cho học sinh, sinh viên; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, làm việc nhóm và khả năng tư duy độc lập: đa dạng hóa hình thức tổ chức học tập, tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong giảng dạy các môn giáo dục quốc phòng và an ninh.

Bốn là, tiếp tục quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên quốc phòng và an ninh bảo đảm số lượng, chất lượng, đạt chuẩn hóa. Đây là giải pháp giữ vai trò quan trọng, xuyên suốt để đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng, an ninh nói chung và giáo dục các chuyên đề có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo cho học sinh, sinh viên nói riêng. Trong đó, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ về nhiệm vụ giáo dục đào tạo nói chung và nhiệm vụ giáo dục quốc phòng, an ninh nói riêng, nhất là Nghị quyết số 29-NQ/TW, Kết luận số 51-KL/TW ngày 30 tháng 5 năm 2019 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Chỉ thị số 12 - CT/TW ngày 03 tháng 5 năm 2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Kiện toàn đội ngũ giáo viên thực hiện giáo dục quốc phòng, an ninh, theo lộ trình đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo; Luật Giáo dục quốc phòng, an ninh năm 2013; Nghị định số 13/2014/NĐ-CP ngày 25/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật GDQPAN; chuẩn hóa đội ngũ giảng viên theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học ngày 19/11/2018; Nghị định số 139/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 13/2014/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật giáo dục quốc phòng, an ninh; các thông tư, văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về nhiệm vụ giáo dục quốc phòng, an ninh. Chủ động xây dựng, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên, được tuyển chọn, kiểm soát chất lượng đầu vào và được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên. Cùng với đó, chủ động xây dựng cơ chế, đãi ngộ phù hợp để đội ngũ cán bộ, giảng viên yên tâm, gắn bó với công việc, tiếp tục triển khai đề án Đào tạo giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh; hằng năm cử cán bộ, giảng viên tham gia các lớp tập huấn do Bộ Giáo dục và Đào tạo, sau đó tập huấn cho số cán bộ, giảng viên còn lại. Chú trọng phát huy vai trò của đội ngũ các nhà khoa học, quản lý giỏi trong lực lượng Công an nhân dân nói chung, trong các học viện, trường Công an nhân dân nói riêng trong giảng dạy các chuyên đề về khối kiến thức an ninh của chương trình giáo dục quốc phòng và an ninh.

 Năm là, phát huy vai trò của Hội đồng Quốc phòng an ninh, vai trò của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhất là Vụ Giáo dục quốc phòng và An ninh trong công tác tham mưu định hướng, xây dựng, sửa đổi, bổ sung các Luật, Thông tư, chương trình về nâng cao chất lượng công tác giáo dục quốc phòng và an ninh. Chú trọng xây dựng các văn bản chỉ đạo và có giải pháp để nâng cao chất lượng dạy và học về nội dung bảo đảm quốc phòng và an ninh nói chung và bảo đảm an ninh trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo, đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam nói riêng. Trong đó quan tâm chỉ đạo, thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trên cả nước đảm bảo hoạt động chất lượng, hiệu quả, đúng quy định. Đồng thời có định hướng đưa vào quy hoạch của Chính phủ các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh thuộc lực lượng Công an nhân dân nhằm tăng cường lực lượng hùng hậu các tổ chức có đủ năng lực, uy tín và trách nhiệm tham gia vào công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho đất nước./.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. tr.165.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. Tr 171.

 

 

CHUẨN HÓA MÔ HÌNH TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI

CHUẨN HÓA MÔ HÌNH TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI

TS Nguyễn Thị Xuân Trung tá, ThS Nguyễn Văn Mạnh

Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

 

Chuẩn hóa mô hình Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQPAN) là yêu cầu tất yếu; trực tiếp nâng cao chất lượng GDQPAN cho sinh viên; góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh dân dân vững mạnh, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước về công tác GDQPAN mà trực tiếp là Quyết định số 638/QĐ-TTg ngày 21/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án thành lập các Trung tâm GDQPAN tại nhà trường Quân đội giai đoạn 2009 - 2015 và những năm tiếp theo; Quyết định số 161/QĐ-TTg Ngày 30/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch hệ thống trung tâm GDQPAN giai đoạn 2015 - 2020 và những năm tiếp theo; Quyết định số 2030/QĐ-BQP ngày 25/7/2020 của Bộ Quốc phòng về việc điều chỉnh, bổ sung danh sách liên kết GDQPAN; Quyết định số 1753/QĐ-TTg Ngày 05/12/2023 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch hệ thống Trung tâm GDQPAN thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Thông tư Liên tịch 123/2015/TTLT-BQP-BGDĐT-BLĐTBXH, Thông tư số 05/2020/TT-BGDĐT. Bài viết khái quá quá trình hình thành, phát triển hệ thống Trung tâm GDQPAN trên cả nước; đi sâu phân tích làm rõ những thành tích đạt được của mô hình Trung tâm GDQPAN thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị một số nội dung và những kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng và chuẩn hóa mô hình Trung tâm GDQPAN trên cả nước.

GDQPAN cho toàn dân nói chung, GDQPAN cho sinh viên nói riêng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng; là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Chỉ thị số 12- CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị khóa X về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác GDQPAN trong tình hình mới khẳng định: “GDQPAN là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân, việc phổ cập và tăng cường GDQPAN là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, phải được chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương bằng các hình thức phù hợp với từng đối tượng, kết hợp giáo dục thường xuyên với giáo dục tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lịch sử truyền thống của Đảng, của dân tộc, lòng tự tôn dân tộc, ý thức sống và làm việc theo pháp luật, trong đó xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi công dân”. Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh số 30/2013/QH13 ngày 19/6/2013 xác định mục tiêu: “Giáo dục cho công dân về kiến thức quốc phòng và an ninh để phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống dựng nước và giữ nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao ý thức, trách nhiệm, tự giác thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Cùng với quá trình xây dựng đất nước, GDQPAN được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng. Qua mỗi giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu thực tiễn của đất nước, nội dung huấn luyện quân sự phổ thông được phát triển thành môn học Giáo dục quốc phòng (GDQP) trong hệ thống giáo dục quốc dân. Ngày 28/4/1981 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 107-CT/TW về “Tăng cường công tác GDQP Nhân dân, chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc”. Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) đã chỉ rõ “Phải tăng cường công tác GDQP cho toàn dân, trước hết là đối với cán bộ các cấp, các ngành của Đảng và Nhà nước và thế hệ trẻ học sinh, sinh viên”. Nghị quyết 02-NQ/TW ngày 30/7/1987 của Bộ Chính trị đã quy định đưa nội dung đường lối quân sự của Đảng và nhiệm vụ quốc phòng vào chương trình học tập chính thức của các trường đào tạo, bổ túc cán bộ của Đảng và Nhà nước; đưa nội dung GDQP vào chương trình chính khoá của các trường trung học và đại học. Ngày 12/2/2001, Bộ Chính trị khóa IX ban hành Chỉ thị số 62- CT/TW về tăng cường công tác giáo dục quốc phòng toàn dân trước tình hình mới và khẳng định: “GDQP toàn dân là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân, việc phổ cập và tăng cường GDQP toàn dân là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, phải được chỉ đạo, tổ chức thực hiện thống nhất từ Trung ương đến địa phương bằng các hình thức phù hợp với từng đối tượng, kết hợp giáo dục thường xuyên với giáo dục tập trung có trọng điểm. Chú trọng giáo dục ý thức, tri thức và kỹ năng quân sự cần thiết cho toàn dân, kết hợp giáo dục lý thuyết với thực hành”.

Ngày 03/5/2007, Bộ Chính trị khóa X ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Giáo dục quốc phòng và an ninh trong tình hình mới”. Theo đó, môn học GDQP được đổi tên thành môn học GDQPAN (lồng ghép kiến thức giáo dục an ninh trong Giáo dục quốc phòng). Ngày 30/6/2013 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật số 30/2013/QH13 Luật giáo dục quốc phòng và an ninh, có hiệu lực ngày 01/01/2014.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ GDQPAN cho sinh viên, Đảng, Nhà nước ta chủ trương thành lập và không ngừng hoàn thiện, chuẩn hóa hệ thống mô hình Trung tâm GDQPAN. Ngày 21/5/2009, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 638/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thành lập các Trung tâm GDQPAN tại nhà trường Quân đội giai đoạn 2009 - 2015 và những năm tiếp theo (16 trung tâm). Ngày 30/01/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 161/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch hệ thống trung tâm GDQPAN giai đoạn 2015 - 2020 và những năm tiếp theo. Tính đến ngày 30/6/2020, toàn quốc có 62 trung tâm GDQPAN, trong đó có 42 trung tâm thuộc nhà trường, đơn vị Quân đội; 02 trung tâm thuộc Đại học Quốc gia; 02 trung tâm thuộc Trường đại học; 16 trung tâm thuộc Đại học vùng.

Ngày 25/7/2020, Bộ Quốc phòng ban hành Quyết định số 2030/QĐ-BQP về việc điều chỉnh, bổ sung danh sách liên kết GDQPAN, theo đó trên toàn quốc có 36 trung tâm GDQPAN thuộc các Đại học Quốc gia, Đại học vùng, Trường Đại học, Cao đẳng. Trong số 36 trung tâm GDQPAN, có 02 trung tâm GDQPAN do Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trực tiếp quản lý; 34 trung tâm còn lại được quản lý theo 2 hình thức: Trung ương quản lý (Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Quốc phòng; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Công thương...) và địa phương quản lý (Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố).

Ngày 05/12/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1753/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch hệ thống Trung tâm GDQPAN thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, xác định mục tiêu cụ thể:

Đến năm 2030: Hệ thống trung tâm GDQPAN toàn quốc có 46 trung tâm trong đó 38 trung tâm đã được thành lập trước năm 2021, 08 trung tâm thành lập mới gồm các trung tâm GDQPAN trường: Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp, Đại học Lao động - Xã hội, Đại học Công Đoàn, Đại học Phạm Văn Đồng, Đại học Thủ Dầu Một, Cao đẳng Lào Cai, Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp Bà Rịa - Vũng Tàu, Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ; bảo đảm cho 100% sinh viên các trường Cao đẳng, cơ sở giáo dục đại học được học tập, rèn luyện, ăn, ở, sinh hoạt tập trung tại trung tâm theo nếp sống Quân đội và môi trường quân sự tại hệ thống trung tâm GDQPAN.

Tầm nhìn đến năm 2045: Hệ thống trung tâm GDQPAN đủ năng lực GDQPAN cho 100% sinh viên các trường Cao đẳng, cơ sở giáo dục Đại học; hướng tới đưa học sinh trung cấp nghề và học sinh trung học phổ thông vào học tập môn học GDQPAN tại các trung tâm GDQPAN. Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị đồng bộ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào giảng, dạy môn học GDQPAN cho các trung tâm; nâng cấp quy mô các trung tâm hiện có hoặc bổ sung quy hoạch thành lập mới các trung tâm GDQPAN đáp ứng nhu cầu cho lưu lượng sinh viên phát triển mới và học sinh trung cấp nghề, học sinh trung học phổ thông vào học tập môn học GDQPAN tại các trung tâm GDQPAN.

Về phân cấp quản lý: Công tác giáo dục Giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên hiện nay do Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chịu trách nhiệm về nội dung, chương trình, tổ chức thực hiện chương trình Giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên và đánh giá kết quả Giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên trên phạm vi toàn quốc. Các trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh chịu sự quản lý trực tiếp về chuyên môn của Vụ Giáo dục quốc phòng và an ninh, Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Đối với Trung tâm GDQPAN, người đứng đầu chịu trách nhiệm toàn diện về các mặt hoạt động của trung tâm là Giám đốc Trung tâm. Ban giám đốc gồm Giám đốc và các Phó giám đốc. Dưới Ban Giám đốc gồm các phòng, ban, khoa. Sự phân cấp về quản lý chuyên môn này là tập trung, thống nhất ở mọi cơ sở trong cả nước, tạo thuận lợi cho việc thực thi nhất quán, đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các cấp quản lý về GDQPAN.

Về mô hình quản lý: Hiện nay, cả nước có 3 mô hình chủ yếu:

Thứ nhất, Trung tâm GDQPAN thuộc nhà trường, đơn vị Quân đội quản lý.

Ưu điểm: Về đội ngũ: 100% giảng viên là sĩ quan Quân đội, có kinh nghiệm thực tiễn huấn luyện, quản lý bộ đội nên làm tốt việc giảng dạy, quản lý sinh viên. Về nội dung học tập, rèn luyện: sinh viên được học các học phần tập trung (cả lý thuyết và thực hành) đảm bảo tính chất, yêu cầu môn học; các đợt học hầu hết sinh viên được bố trí học tập, ăn ở, rèn luyện tập trung tại Trung tâm; thực hiện các chế độ trong ngày, trong tuần theo chế độ, nền nếp Quân đội; trang thiết bị dạy học bảo đảm yêu cầu môn học.

Nhược điểm: Về đội ngũ: ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giảng dạy (đặc biệt là giảng dạy trực tuyến, các phương pháp dạy học tích cực), còn hạn chế. Về điều kiện đảm bảo: Một số trung tâm ở xa khó khăn trong việc đưa sinh viên đến học nên có thời điểm phải đưa sĩ quan đến giảng dạy tại trường.

Thứ hai, Trung tâm thuộc Đại học Quốc gia và Đại học Vùng

Quản lý về hành chính: Các Đại học Quốc gia, Đại học Vùng quản lý về hành chính, phối hợp đơn vị Quân đội cử sĩ quan biệt phái làm nòng cốt tham mưu và thực hiện nhiệm vụ GDQPAN.

Ưu điểm: Về đội ngũ: Giảng viên nòng cốt là sĩ quan Quân đội biệt phái và giảng viên chuyên trách (giảng viên cơ hữu) được đào tạo chuyên ngành Giáo dục quốc phòng và an ninh có kinh nghiệm giảng dạy, quản lý. Về nội dung học tập, rèn luyện: Sinh viên được học tập, rèn luyện, ăn ở tập trung theo nền nếp Quân đội; sinh viên được học các học phần tập trung (cả lý thuyết và thực hành) đảm bảo tính chất, yêu cầu môn học; đội ngũ giảng viên thích ứng linh hoạt với phương thức giảng dạy mới (cả trực tuyến và trực tiếp); cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy được bảo đảm tốt.

Nhược điểm: Về đội ngũ: Số lượng sĩ quan bị động, thiếu sự ổn định do phụ thuộc vào đơn vị Quân đội cử đi biệt phái. Về nội dung học tập, rèn luyện: Một số Trung tâm chưa đàm phán để bố trí đều lượng sinh viên trong từng khóa học nên có thời điểm quá tải, nhiều đợt không bố trí học tập, rèn luyện tập trung theo quy định môn học. Theo Thông tư liên tịch số 123/2015/TTLT-BQP-BGDĐT-BLĐTBXH ngày 05/11/2015 Quy định tổ chức, hoạt động của Trung tâm GDQPAN; liên kết GDQPAN của các Trường Cao đẳng, cơ sở giáo dục Đại học quy định Giám đốc Đại học Quốc gia, Đại học Vùng làm Giám đốc Trung tâm GDQPAN sẽ làm hạn chế tính chủ động, linh hoạt trong GDQPAN.

Thứ ba, Khoa, Trung tâm thuộc Trường đại học quản lý

Ưu điểm: Về đội ngũ: Hầu hết giảng viên chuyên trách (giảng viên cơ hữu) được đào tạo chuyên ngành GDQPAN, hợp đồng thỉnh giảng với một số sĩ quan nghỉ hưu. Cơ sở vật chất, trang thiết bị được quan tâm đầu tư, có cơ chế quản lý tự chủ để giải quyết nhanh các vấn đề phát sinh.

Nhược điểm: Về đội ngũ: Số lượng giảng viên còn thiếu so với nhu cầu thực tế, chủ yếu mời thỉnh giảng, không có sự gắn bó, không ràng buộc được trách nhiệm. Về nội dung học tập, rèn luyện: chủ yếu giảng dạy rải các cặp tiết (lý thuyết và thực hành) hoặc giảng kết hợp với các môn học khác nên ảnh hưởng đến kết cấu môn học, tính liên thông các nội dung học tập. Về cơ sở vật chất: thao trường, bãi tập cho các nội dung học thực hành (HP3,4) khó đảm bảo. Rất khó để tổ chức và thực hiện quản lý, rèn luyện sinh viên ăn ở tập trung theo nền nếp Quân đội; học phí khó kiểm soát.

Từ thực trạng trên có thể thấy: Mô hình Trung tâm thuộc Đại học Quốc gia và Đại học Vùng là ưu việt nhất bởi vì: Các trung tâm này có cơ sở vật chất đáp ứng tốt yêu cầu giảng dạy, rèn luyện sinh viên; có đội ngũ giảng viên nòng cốt là sĩ quan Quân đội biệt phái; thường xuyên được tập huấn, áp dụng phương pháp giảng dạy mới; các chế độ chính sách được đãi ngộ tốt hơn.

Mô hình Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Trung tâm GDQPAN thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập theo Quyết định số 225/QĐ/ĐHQG/TCCB ngày 21 tháng 7 năm 1997 của Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 25 tháng 12 năm 1997, Trung tâm tổ chức Lễ ra mắt và chính thức đi vào hoạt động; ngày 25 tháng 12 năm 1997 trở thành Ngày Truyền thống Trung tâm GDQPAN theo Quyết định số 1189/QĐ-BTL ngày 12/12/2007 của Tư lệnh Quân khu 7.

Về chức năng, nhiệm vụ: Trung tâm GDQPAN là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, có tư cách pháp nhân, con dấu riêng và tài khoản tại ngân hàng, kho bạc nhà nước; có chức năng, nhiệm vụ GDQPAN, bồi dưỡng kiến thức QPAN theo quy định của pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ Cơ quan thường trực Ban Chỉ huy Quân sự Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tham mưu cho lãnh đạo Đại học Quốc gia về công tác quân sự, Quốc phòng theo quy định của cơ quan quân sự địa phương và hướng dẫn của Đại học Quốc gia; đồng thời, thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

Quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo cấp trên về giáo dục quốc phòng và an ninh; trải qua gần 27 năm hình thành, xây dựng và phát triển, Trung tâm GDQPAN thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã trải qua 3 lần đổi tên với 3 mô hình tổ chức:

Trung tâm GDQP (1997 -2012) với cơ cấu tổ chức bộ máy bao gồm: Ban Giám đốc và 06 đơn vị gồm: Phòng Đào tạo, Phòng Tổ chức - Hành chính - Chính trị, Phòng Hậu cần

- Kỹ thuật, Ban Quản lý nội trú, Khoa Giáo viên Chính trị và Khoa Giáo viên Quân sự.

 Trung tâm GDQPAN sinh viên (2012-2017) với cơ cấu tổ chức bộ máy bao gồm: Ban Giám đốc; 04 phòng chức năng: Phòng Đào tạo, Phòng Hành chính – Tổng hợp, Phòng Quản lý sinh viên, Phòng Hậu cần, Tài chính, Kỹ Thuật; 03 khoa chuyên môn: Khoa Đường lối quân sự của Đảng, Khoa Công tác quốc phòng an ninh, Khoa Quân sự; các Hội đồng: Hội đồng Khoa học và Đào tạo; Hội đồng thi đua, khen thưởng.

Trung tâm GDQPAN (2017 đến nay) với cơ cấu tổ chức bộ máy bao gồm: Ban Giám đốc; 04 phòng chức năng: Phòng Đào tạo; Phòng Tổ chức - Hành chính; Phòng Quản lý sinh viên, Phòng Hậu cần, Tài chính, Kỹ Thuật; 02 khoa chuyên môn: Khoa Chính trị, Khoa Quân sự; các Hội đồng: Hội đồng Quản lý, Hội đồng Khoa học và Đào tạo; Hội đồng thi đua, khen thưởng.

Từ thực tiễn tổ chức mô hình Trung tâm cho thấy: Quá trình hình thành phát triển gắn với quá trình không ngừng nghiên cứu, hoàn thiện mô hình, cơ cấu tổ chức phù hợp và ưu việt hơn.

Với mô hình tổ chức như hiện nay đã phát huy tốt tính ưu việt của bộ máy, bảo đảm tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cơ chế vận hành thông suốt đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình thực tiễn; các phòng, khoa hoạt động với tính chuyên môn hóa cao, phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả trong tham mưu và triển khai thực hiện nhiệm vụ GDQPAN. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình thực tiễn, Trung tâm đã tiên phong đổi mới cơ chế hoạt động; tham mưu, đề xuất và được Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh chấp thuận, phê duyệt Quy chế tổ chức hoạt động và thành lập Hội đồng quản lý Trung tâm; từ đó, Trung tâm là đơn vị đầu tiên trong hệ thống được tự chủ bảo đảm 100% chi thường xuyên (nhóm 2); đồng thời Trung tâm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số vào quá trình quản lý, điều hành và giáo dục, đào tạo như: phần mềm quản lý đào tạo, phần mềm quản lý sinh viên, quản lý quân trang, phần mềm quản lý vũ khí trang bị, phần mềm tổ chức góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy.

Công tác xây dựng đội ngũ: Trung tâm thường xuyên rà soát, đánh giá toàn diện về cơ cấu tổ chức, số lượng, chất lượng vị trí việc làm; tình hình sử dụng, sắp xếp nhân sự trong đơn vị; trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch cán bộ và kế hoạch sử dụng cán bộ, viên chức, người lao động bảo đảm yêu cầu trước mắt và lâu dài. Hiên nay, Tổng số cán bộ, công chức, viên chức và người lao động: 87 người (công chức, viên chức: 42 đồng chí và sĩ quan biệt phái 45 đồng chí); Giảng viên: 56 (Giảng viên sĩ quan biệt phái: 45; Giảng viên cơ hữu: 11); Trình độ học vấn: Tiến sĩ (02); Thạc sĩ (19); Đại học (56). Đặc biệt, đội ngũ giảng viên của Trung tâm nòng cốt là sĩ quan biệt phái (45/56 chiếm tỷ lệ 80,36%); được đào tạo, bồi dưỡng cơ bản tại các học viện, nhà trường Quân đội, đã kinh qua nhiều vị trí lãnh đạo, quản lý, chỉ huy tại các đơn vị Quân đội; có kinh nghiệm cả trong lãnh đạo, quản lý và giảng dạy; tâm huyết, trách nhiệm với đơn vị, yêu nghề; có phẩm chất đạo đức trong sáng, là những tấm gương mẫu mực; vừa thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy, vừa là người trực tiếp truyền ngọn lửa cách mạng và phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” cho sinh viên, tạo sức lan tỏa và sức thuyết phục lớn trong công tác GDQPAN.

Từ mô hình tổ chức bộ máy ưu việt đã phát huy hiệu quả; Trung tâm đã hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ GDQPAN. Nổi bật là:

Thứ nhất, Đáp ứng yêu cầu quy mô giảng dạy ngày càng lớn

Với năng lực ban đầu là 15.000 sinh viên/năm; đến nay, Trung tâm đã liên kết, giảng dạy môn học GDQPAN cho 23 trường đại học, cao đẳng, với lưu lượng trung bình hàng năm đạt 45.000 sinh viên; số lượng sinh viên hoàn thành môn học tích lũy đến nay gần một triệu sinh viên. Theo Quyết định số 1537/QĐ-TTg ngày 05/12/2023 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Quy hoạch hệ thống Trung tâm GDQPAN thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Trung tâm được Chính phủ quy hoạch giảng dạy 50.000 sinh viên/năm. Đây là niềm vinh dự, tự hào nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức; tuy nhiên với vị thế, uy tín, bề dày kinh nghiệm, cơ sở vật chất bảo đảm tốt, đội ngũ chuyên nghiệp, Trung tâm sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Thứ hai, chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học có nhiều tiến bộ đột phá

Để nâng cao chất lượng giảng dạy, Trung tâm chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý kết hợp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số vào quá trình quản lý, giảng dạy; khuyến khích và tạo điều kiện cho đội ngũ giảng viên tham gia các lớp đào tạo nâng cao; thường xuyên mời chuyên gia tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức nhất là kỹ năng sư phạm; chuyển đổi mạnh mẽ từ phương pháp giảng dạy truyền thống sang phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm, phát huy vai trò tích cực, chủ động của sinh viên; đến nay 100% giảng viên thuần thục phương pháp giảng dạy tích cực. Kết hợp chặt chẽ đổi mới phương pháp giảng dạy với đổi mới thi đánh giá kết quả môn học; nội dung thi lý thuyết theo hình thức trắc nghiệm trên máy tính với 04 bộ ngân hàng hơn 1.000 câu hỏi trắc nghiệm. Công tác thanh tra đào tạo được tiến hành thường xuyên, chặt chẽ, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.

Hàng năm, tổ chức tốt Hội nghị liên kết GDQPAN kết hợp giao lưu với các đơn vị, các trường liên kết tại nhiều địa điểm trên cả nước; thông qua đó, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và thống nhất thời gian, chương trình học tập, rèn luyện của sinh viên; khắc phục triệt để tình trạng quá tải vào thời gian cao điểm; đồng thời tăng cường mối quan hệ gắn bó bền chặt và trách nhiệm các trường liên kết trong phối hợp nâng cao chất lượng GDQPAN.

Với mục đích không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng giảng dạy, Trung tâm đã tiên phong xây dựng và thực hiện đánh giá chuẩn đầu ra môn học GDQPAN; đồng thời đẩy mạnh, khuyến khích, động viên cán bộ, giảng viên tích cực nghiên cứu khoa học; lấy kết quả nghiên cứu khoa học là một tiêu chí đánh giá chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, giảng viên và bình xét thi đua, khen thưởng; số lượng đề tài nghiên cứu khoa học tăng hàng năm, đối tượng nghiên cứu mở rộng, chất lượng các đề tài được nâng cao. Tính đến hết nay, đã có 06 đề tài cấp cơ sở được nghiệm thu và được ứng dụng trong thực tiễn hoạt động tại Trung tâm mang lại kết quả tốt.

Bằng những cách làm bài bản và chặt chẽ, kết quả học tập của sinh viên được nâng lên qua từng năm; kết quả chung, trên 99% đạt yêu cầu, trong đó, trên 75% khá, giỏi. Kết thúc khóa học, sinh viên trưởng thành rõ nét về nhận thức, ý thức, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời chứng minh mô hình Trung tâm GDQPAN, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong tổ chức giảng dạy môn học là phù hợp và hiệu quả.

Thứ ba, chất lượng công tác quản lý, rèn luyện sinh viên ngày càng được nâng cao.

Với đặc thù là Trung tâm lớn nhất cả nước về quy mô; do vậy, hiện nay Trung tâm vẫn đang duy trì tổ chức Phòng Quản lý sinh viên tương đối phù hợp; Trung tâm có ưu thế cơ sở vật chất bảo đảm tốt và đội ngũ sĩ quan biệt phái lớn, có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý, huấn luyện, rèn luyện bộ đội. Vì vậy, công tác quản lý, rèn luyện sinh viên được thực hiện rất bài bản, chặt chẽ từ khâu tiếp nhận, phổ biến quy định đến quá trình quản lý, rèn luyện. Kết hợp giữa giáo dục với áp dụng chế tài hành chính; duy trì thực hiện các chế độ, nền nếp và triển khai thực hiện Quy chế đánh giá, rèn luyện sinh viên. 100% sinh viên học tập, sinh hoạt, rèn luyện tập trung tại Trung tâm theo nếp sống quân đội; chú trọng vận dụng linh hoạt thực hiện 11 chế độ trong ngày, 3 chế độ trong tuần phù hợp với đơn vị, như: Trực ban, trực chỉ huy, báo thức sáng, tập thể dục buổi sáng, chơi thể thao buổi chiều; ăn, uống tập trung theo đội ngũ; ngủ, nghỉ theo hiệu lệnh; sắp đặt nội vụ gọn gàng; xếp hàng điểm danh trước khi lên lớp; luyện tập điều lệnh đội ngũ; tổ chức hành quân rèn luyện, gác đêm.  đã góp phần tạo nên ý thức tự giác học tập, tinh thần đoàn kết, tính kỷ luật và thói quen sinh hoạt tốt cho sinh viên.

Điểm nổi bật là, các hoạt động ngoại khóa được tổ chức thường xuyên, đa dạng, phong phú, tạo sân chơi lành mạnh cho sinh viên. Trung tâm phối hợp chặt chẽ với Đoàn, Hội sinh viên, Ban Công tác quốc phòng và an ninh các trường liên kết tổ chức phát động phong trào thi đua trong từng khóa học; các hoạt động ngoại khóa mang giá trị, ý nghĩa thiết thực như: Đồng diễn thể dục, thi đấu thể thao, giao lưu văn hóa, văn nghệ; tăng cường các kỹ năng mềm, kỹ năng tự vệ, kiến thức về phòng cháy chữa cháy, cứu nạn cựu hộ, kỹ năng sơ cứu y tế…Tổ chức tốt các hoạt động: Viếng Nghĩa trang liệt sĩ, thăm Mẹ Việt Nam anh hùng, thăm căn cứ cách mạng, di tích lịch sử và các đơn vị Quân đội như: Bảo tàng Quân khu 7, Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, các đơn vị Lữ đoàn 167, 171, 125, 681 thuộc Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân, các đơn vị Lữ đoàn Tăng Thiết giáp 26, Lữ đoàn Phòng không 77, Sư đoàn Bộ binh 5 thuộc Quân khu 7. Đặc biệt, Trung tâm đã ký Quy chế phối hợp tuyên truyền biển đảo với Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân; theo đó, trong từng khóa học, Trung tâm mời Báo cáo viên tổ chức “Thông tin thời sự”; kịp thời cung cấp cho sinh viên những kiến thức, thông tin và định hướng nhận thức, tư tưởng về tình hình biển đảo và tình hình chính trị thời sự nổi bật.

Với đặc thù lưu lượng sinh viên lớn, Trung tâm đặc biệt chú trọng công tác y tế cơ sở, chăm sóc sức khỏe cho sinh viên. Ký hợp đồng hợp tác hỗ trợ y tế với Bệnh viện Quân dân y Miền Đông, bố trí cán bộ y tế trực 24/24 giờ để phục vụ thăm khám, sơ cứu các trường hợp bệnh thông thường, bố trí xe cấp cứu trong các trường hợp khẩn cấp, đồng thời đảm bảo cơ số thuốc cần thiết, tham gia kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm tại các nhà ăn, căn tin... đảm bảo tốt vệ sinh khu vực nhà ở sinh viên, các công trình công cộng, phòng chống dịch bệnh; nhiều năm qua công tác chăm sóc y tế cho sinh viên được thực hiện tốt, không để xảy ra dịch bệnh, không có trường hợp ngộ độc tập thể.

Bằng nhiều biện pháp đồng bộ và toàn diện, kết quả đánh giá, khen thưởng qua các năm cho thấy, số lượng tập thể và cá nhân sinh viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được biểu dương, khen thưởng ngày càng tăng, số lượng sinh viên vi phạm bị xử lý kỷ luật giảm mạnh. Hiệu quả của công tác quản lý, rèn luyện sinh viên được kiểm nghiệm qua thực tiễn; kết thúc khóa học, sinh viên có sự trưởng thành rõ rệt về nhận thức, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong, nếp sống tập thể, góp phần nâng cao nhận thức về lý tưởng cách mạng, ý thức, trách nhiệm công dân trong bảo vệ Tổ quốc. Kết quả đó đã minh chứng mô hình cơ cấu tổ chức và hoạt động quản lý, rèn luyện sinh viên là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp đối với một đơn vị có quy mô giảng dạy lớn như Trung tâm.

Thứ tư, thường xuyên quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khang trang, xanh – sạch – đẹp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Để đáp ứng yêu cầu công tác giảng dạy, quản lý và rèn luyện sinh viên Trung tâm đã nỗ lực xây dựng cơ sở hạ tầng qua nhiều giai đoạn; kết hợp Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp và tiên phong vay vốn đẩy mạnh đầu tư xây dựng, củng cố cơ sở vật chất từng bước hiện đại, đồng bộ, bảo đảm quy mô giảng dạy 45.000 sinh viên/năm.

Cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy gồm: Hội trường Võ Nguyên Giáp 400 chỗ, 02 khu giảng đường với 25 phòng học sức chứa 150 sinh viên/ phòng, trong đó có 04 phòng học chuyên dùng; 25 bãi tập thực hành; hệ thống thao trường chiến thuật, mô hình có thể phục vụ huấn luyện cùng lúc 6 đại đội; hệ thống giảng dạy, tuyên truyền trực tuyến kết nối hội trường và các giảng đường; 02 phòng thi trắc nghiệm lý thuyết 300 máy tính; hệ thống kho vật chất huấn luyện, kho quân trang. Đặc biệt, Trung tâm được Bộ Quốc phòng hỗ trợ thiết bị tập bắn MBT-03, TBS-19... tạo cho các buổi học kỹ thuật bắn súng trở nên hấp dẫn, sát thực tế chiến đấu, giúp sinh viên nắm chắc, hiểu sâu từng nội dung.

Cơ sở vật chất phục vụ nội trú gồm: 05 dãy nhà ở sinh viên 4 tầng; 02 nhà ăn sinh viên, bảo đảm phục vụ 3.600 sinh viên/lượt; sân chào cờ, bãi tập luyện thể lực và nhiều sân chơi thể thao khác. Vũ khí, trang bị, mô hình học cụ, quân trang đảm bảo phục vụ giảng dạy, học tập, huấn luyện được áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý.

 Với sự quan tâm đầu tư xây dựng bài bản và củng cố liên tục, đến nay Trung tâm là một trong những đơn vị có cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, chính quy, khuôn viên, cảnh quan sáng – xanh – sạch – đẹp, tạo môi trường thuận lợi để sinh viên học tập và rèn luyện.

Thứ năm, Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cơ quan thường trực Ban Chỉ huy Quân sự Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Cùng với thực hiện nhiệm vụ chính trị, Trung tâm đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Cơ quan thường trực Ban Chỉ huy Quân sự Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; tham mưu, hướng dẫn thành lập, kiện toàn Ban Chỉ huy Quân sự 11 đơn vị thành viên; hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị huấn luyện, xây dựng lực lượng, kiện toàn văn kiện sẵn sàng chiến đấu, luyện tập các phương án sát thực tế; tổ chức hội thi, hội thao quốc phòng và các hoạt động giao lưu góp phần nâng cao chất lượng hoạt động. Hàng năm hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện các khối đội ngũ tự vệ Đại học quốc gia tham gia duyệt đội ngũ Lễ ra quân huấn luyện LLVT Thành phố Hồ Chí Minh. Hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ huy Quân sự đã góp phần quan trọng cùng các lực lượng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn và bảo vệ cơ quan, nhà trường an toàn tuyệt đối.

Thứ sáu, tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục quốc phòng và an ninh

Công tác đối ngoại có nhiều đột phá rất tích cực; Trung tâm chú trọng giữ vững mối quan hệ hợp tác với các đơn vị liên kết truyền thống, đồng thời tăng cường mở rộng mối quan hệ hợp tác gắn bó, ký kết quy chế phối hợp với nhiều đơn vị trong và ngoài hệ thống, trên nhiều lĩnh vực công tác. Tiêu biểu như: Cục Chính trị/Quân khu 7, Bộ Tư lệnh Vùng 2, Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân, Bệnh viện Quân dân y miền Đông, Bảo tàng Quân khu 7, Bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, Trung đoàn 152/Quân khu 9 xã đảo Thổ Chu, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học Thái Nguyên, Đại học Cần Thơ ..

Hàng năm cử cán bộ tham gia Đoàn công tác thăm, tặng quà, giao lưu với cán bộ, chiến sĩ Quần đảo Trường Sa và Nhà Giàn DK góp phần tuyên truyền, bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Tổ chức ký kết Thỏa thuận hợp tác với Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh triển khai Vườn ươm thực hiện Chương trình “Một triệu cây vì biển đảo Tổ quốc, vì quê hương Việt Nam xanh” của Chính phủ.

Thường xuyên phối hợp với các đơn vị trong Cụm thi đua, các đơn vị kết nghĩa và các đơn vị Quân đội đẩy mạnh các hoạt động dân vận, chính sách, “Đền ơn đáp nghĩa”; xây dựng nhà tình nghĩa quân dân; thăm, tặng quà gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn; tăng cường mối quan hệ đoàn kết, gắn bó với các cơ quan, đơn vị, cấp ủy, chính quyền và Nhân dân trên địa bàn.

Công tác GDQPAN cho sinh viên có vị trí, vai trò rất quan trọng, đây là lực lượng tri thức trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước, làm nòng cốt cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chuẩn hóa mô hình Trung tâm GDQPAN là chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta nhằm chuẩn hóa mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành và thống nhất công tác quản lý Nhà nước về GDQPAN; trực tiếp quyết định nâng cao chất lượng GDQPAN trong tình hình mới.

Chuẩn hóa mô hình Trung tâm GDQPAN phải quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật về GDQPAN và phù hợp với tình hình thực tiễn. Quá trình triển khai tổ chức thực hiện phải bài bản, có lộ trình, không ngừng hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp; huy động mọi nguồn lực tham gia; tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của cơ quan chuyên môn; thường xuyên sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm để từng bước hoàn thiện mô hình vừa bảo đảm tính pháp lý, tính thực tiễn và tính ưu việt.

Trung tâm GDQPAN, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trải qua gần 27 năm xây dựng và phát triển với ba lần hoàn thiện cơ cấu tổ chức; thực tiễn đã chứng minh là mô hình phù hợp và ưu việt; chất lượng giảng dạy, quản lý, rèn luyện sinh viên không ngừng được nâng lên; Trung tâm đã phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tiên phong trên nhiều lĩnh vực; huy động được nhiều nguồn lực cho phát triển; luôn hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ; khẳng định kinh nghiệm bề dày, chất lượng, uy tín và vị thế là Trung tâm lớn nhất cả nước về quy mô giáo dục quốc phòng và an ninh.

Chuẩn hóa mô hình Trung tâm GDQPAN là đòi hỏi tất yếu của công tác GDQPAN; đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành; đồng thời phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động, sáng tạo của các Trung tâm để hoàn thiện, chuẩn hóa mô hình Trung tâm GDQPAN theo Đề án 1753/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; trực tiếp nâng cao chất lượng GDQPAN đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Kiến nghị, đề xuất

1.         Kính đề nghị Vụ Giáo dục quốc phòng và an ninh phối hợp các cơ quan liên quan nghiên cứu, tham mưu Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Hội đồng GDQPAN Trung ương ban hành văn bản hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật vừa bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất, vừa bảo đảm tính đặc thù tạo hành lang pháp lý thông suốt nâng cao chất lượng công tác giáo dục quốc phòng và an ninh.

2.         Hiện nay, các Trung tâm Giáo giáo dục quốc phòng và an ninh trên cả nước khác nhau về tính chất, quy mô, mục tiêu phát triển; do vậy không nên quy định cứng nhắc về cơ cấu tổ chức bộ máy; cần có cơ chế mở để phát huy tính chủ động, sáng tạo, nguồn lực của các Trung tâm; chú trọng ưu tiên cơ chế, chính sách cụ thể đối với các Trung tâm có quy mô lớn, các Trung tâm được tự chủ.

3.         Giáo trình giáo dục quốc phòng và an ninh (Dùng cho sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng), Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, năm 2019, nhiều nội dung đã cũ, chưa cập nhật chủ trương, Nghị quyết mới của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước về công tác giáo dục quốc phòng và an ninh. Chính vì vậy, kính đề nghị Vụ Giáo dục quốc phòng và an ninh tham mưu Bộ Giáo dục và đào tạo chỉ đạo cơ quan chuyên môn sớm biên soạn, ban hành bộ giáo trình mới phù hợp với tình hình thực tiễn.

4.         Đề án 607/QĐ-TTg, ngày 24/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về “Đào tạo giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh cho các trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, cao đẳng nghề và các cơ sở giáo dục đại học đến năm 2020” đã được triển khai thực hiện và chứng minh rất phù hợp. Tuy nhiên, hiện nay số lượng giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh được đào tạo theo Đề án 607/QĐ-TTg tại các Trung tâm còn thiếu; đội ngũ sĩ quan biệt phái vẫn giữ vai trò nòng cốt trong tham mưu và trực tiếp làm nhiệm vụ giảng dạy. Từ thực tiễn trên, kính đề nghị Vụ Giáo dục quốc phòng và an ninh phối hợp, tham mưu Hội đồng Giáo dục quốc phòng và an ninh Trung ương chủ trương tiếp tục sử dụng sĩ quan biệt phái làm nòng cốt trong công tác giảng dạy quốc phòng và an ninh tại các Trung tâm. Đồng thời tham mưu Chính phủ sơ kết Đề án 607/QĐ-TTg, và cho chủ trương mở mã ngành đào tạo giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh bậc sau đại học để phù hợp với Luật Giáo dục đại học và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng và an ninh trong tình hình mới./.

 

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY VÀ TỔ CHỨC LUYỆN TẬP CÁC NỘI DUNG THỰC HÀNH CHO SINH VIÊN TRONG HỌC TẬP MÔN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY VÀ TỔ CHỨC LUYỆN TẬP CÁC NỘI DUNG THỰC HÀNH CHO SINH VIÊN TRONG HỌC TẬP MÔN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

Thượng tá Lê Văn Cường

Phó Trường khoa Kỹ thuật - Chiến thuật

 

Thông qua công tác chỉ đạo, điều hành huấn luyện và luyện tập các nội dung thực hành cho sinh viên khi học tập môn học Giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQP&AN) vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế tại các trung tâm. Điều đó được biểu hiện trong kết quả nắm nội dung kiến thức được trang bị và hình thành kỹ năng quân sự cho sinh viên chưa đạt được như kỳ vọng. Từ đó, sinh viên chưa biết vận dụng những kiến thức được trang bị vào quá trình học tập cũng như thực hiện các hoạt động. Căn cứ thực tiễn việc tổ chức huấn luyện và luyện tập các nội dung thực hành tại các trung tâm GDQP&AN, chuyên đề tập trung làm rõ những đặc điểm và yếu tố tác động đồng thời đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng huấn luyện và luyện tập các nội dung thực hành cho sinh viên trong học tập môn học GDQP&AN hướng tới thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện con người mới XHCN tại các trung tâm GDQP&AN hiện nay.

GDQP&AN cho sinh viên là một trong những chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, nhằm giáo dục cho sinh viên lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, niềm tự hào, tự tôn dân tộc; trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về quốc phòng và an ninh, những kỹ năng quân sự cần thiết, thông qua đó giúp sinh viên nhận thức đầy đủ hơn quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những năm qua, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến công tác GDQP&AN, mà thường xuyên, trực tiếp là cơ quan thường trực HĐQP&ANTW, Vụ GDQP&AN, Bộ GD&ĐT. Trên cơ sở quan triệt chủ trương của Đảng, sự chỉ đạo của các cơ quan Ban, Bộ ngành Trung ương, các trung tâm GDQP&AN đã tích cực nghiên cứu đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện, bảo đảm tốt cơ sở vật chất, phương tiện huấn luyện góp phần nâng cao chất lượng công tác GDQP&AN cho sinh viên, đặc biệt là công tác tổ chức huấn luyện, luyện tập phần thực hành ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực.

Tuy nhiên, quá trình triển khai trong vẫn còn bộc lộ một số những bất cập, hạn chế, thiếu sót mà trong ngắn hạn các trung tâm GDQP&AN vẫn chưa thể khắc phục được đó là: việc kết hợp giữa giảng dạy lý thuyết và thực hành động tác mẫu của đội ngũ giảng viên còn chưa thật nhuần nhuyễn; phân tích lý giải làm rõ bản chất các động tác, thao tác kỹ thuật và định hướng vận dụng vào thực tiễn chưa sâu; việc truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu cho sinh viên còn chưa nhiều; trong huấn luyện còn dập khuôn, cứng nhắc chưa phù hợp với đối tượng người học; tổ chức duy trì và điều hành luyện tập chưa khoa học, hợp lý.

 Một trong những nguyên nhân cơ bản trên là do nhận thức của một bộ phận đội ngũ cán bộ, giảng viên còn đơn giản, chưa thực sự quan tâm đúng mức đến công tác GDQP&AN; trình độ của đội ngũ giảng viên chưa đều, nhiều giảng viên chưa được huấn luyện cơ bản trong môi trường quân đội do đó việc nắm nội dung, vận dụng phương pháp khi tổ chức huấn luyện, luyện tập chưa linh hoạt. Cùng với đó là bảo đảm cơ sở vật chất, thao trường, bãi tập chưa đầy đủ và đồng bộ phục vụ cho công tác huấn luyện.

Trước yêu cầu đổi mới công tác dạy học, việc nghiên cứu nâng cao chất lượng môn học GDQP&AN nói chung và các nội dung huấn luyện thực hành nói riêng là một đòi hỏi cấp thiết. Trong khuôn khổ chuyên đề, tác giả làm rõ đặc điểm hoạt động huấn luyện, tổ chức luyện tập các nội dung thực hành, các yếu tố tác động và đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng huấn luyện và luyện tập thực hành môn GDQP&AN cho sinh viên tại các trung tâm GDQP&AN.

Đặc điểm và những yếu tố tác động đến quá trình huấn luyện và tổ chức luyện tập các nội dung thực hành cho sinh viên hiện nay

Đặc điểm hoạt động

Huấn luyện và luyện tập các nội dung thực hành có tính tổng hợp cao, đòi hỏi sinh viên phải vận dụng kiến thức tổng hợp cả kỹ thuật và chiến thuật, tâm lý, sức khoẻ và bản lĩnh, ý chí. Thời gian huấn luyện và luyện tập chiếm tỷ trọng lớn so với chương trình đào tạo 72/165 tiết theo tổng chương trình môn học. Nội dung huấn luyện chủ yếu diễn ra ở ngoài trời bị ảnh hưởng do điều kiện khí hậu, thời tiết; cường độ hoạt động lớn, yêu cầu bài tập cao, động tác gò bó theo khuôn mẫu, đòi hỏi sự kiên nhẫn, tỉ mỉ, chính xác trong từng thao tác nhỏ. Quá trình luyện tập để hình thành kỹ năng, kỹ xảo phải lặp đi, lặp lại nhiều lần do đó dễ gây căng thẳng mệt mỏi, nhàm chán cho người học. Vật chất bảo đảm cho môn học nhiều về số lượng và chủng loại, trong phạm vi không gian rộng.

Đánh giá kết quả môn học dưới nhiều hình thức: đánh giá thường xuyên; kiểm tra giữa kỳ; kiểm tra kết thúc học phần môn học bằng các hình thức thực hành. Từ đó tạo ra các áp lực tâm lý, đòi hỏi sinh viên phải có quyết tâm cao, bản lĩnh vững vàng, tích cực rèn luyện nâng cao kỹ năng, làm chủ động tác, kỹ thuật mới có thể hoàn thành yêu cầu, nhiệm vụ môn học.

Những yếu tố tác động đến chất lượng huấn luyện và luyện tập các nội dung thực hành cho sinh viên

Nguyên lý và quan điểm giáo dục: Trong huấn luyện quân sự, nguyên lý được xác định: "Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn". Đây là vấn đề có ý nghĩa chủ đạo xuyên suốt, bao trùm, là cơ sở phương pháp luận để phát triển kỹ năng cho người học, có giá trị hiện thực trong việc định hướng lý luận và chỉ đạo thực tiễn đào tạo. Đồng thời cũng là điều kiện vô cùng quan trọng, cần thiết, vấn đề có tính quy luật của quá trình giáo dục đào tạo, đặc biệt trong huấn luyện quân sự.

 Trong quá trình huấn luyện thực hành đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải phân tích, lý giải làm rõ bản chất các nội dung lý thuyết, nguyên tắc, có dẫn chứng chứng minh bằng kinh nghiệm chiến đấu đã được tổng kết để định hướng vận dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, nội dung này các trung tâm hiện vẫn còn chưa thực sự coi trọng, một số ít còn có nhận thức huấn luyện cho xong chương trình, việc định hướng trong hành động cụ thể ngay cả trong hoạt động khi học tập tại trung tâm cũng chưa được vận dụng triệt để, từ đó sinh viên còn hời hợt, chưa tập trung trong học tập.

Mục tiêu và chương trình đào tạo: Mục tiêu đào tạo thể hiện là những thay đổi của sinh viên trong lĩnh vực nhận thức (kiến thức mà sinh viên thu nhập được trong quá trình đào tạo) kỹ năng (khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được vào thực tiễn) và thái độ (những thái độ, tình cảm được hình thành và phát triển ở sinh viên) sau một khoá học. Đối với sinh viên, mục tiêu của môn học GDQP&AN được qui định tại khoản 2 Điều 12 Chương II Luật Giáo dục Quốc phòng và An ninh. Trong Luật đã xác định rõ mục tiêu trang bị cho sinh viên “kỹ năng quân sự”. Đó chính là khả năng thực hành những kiến thức cơ bản cần thiết về kỹ thuật, chiến thuật đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.

Chương trình đào tạo là một bảng thiết kế tổng thể cho một hoạt động đào tạo, trong đó xác định những nội dung cần đào tạo, phương pháp đào tạo, các điều kiện và phương tiện hỗ trợ đào tạo; phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập cũng như việc phân phối thời gian cho từng học phần môn học. Chương trình đào tạo cho sinh viên được quy định theo Thông tư 05/TT-BGD&ĐT gồm 04 học phần môn học, phần kiến thức quân sự mang tính tổng hợp, vừa truyền thụ, trang bị những kiến thức mới song đồng thời phải liên kết lại kiến thức đã được học thành hệ thống. Như vậy, môn học đặt ra yêu cầu rất cao, trong thời gian ngắn, kiến thức rộng và nhiều nội dung. Đây chính là mâu thuẫn đòi hỏi mỗi trung tâm cần có những giải pháp đồng bộ có như vậy công tác GDQP&AN cho sinh viên mới đạt được hiệu quả.

Đối tượng đào tạo: Sinh viên là đối tượng trực tiếp tiếp thu kiến thức năng lực thực hành do giảng viên huấn luyện. Sinh viên chủ yếu là các em học sinh vừa tốt nghiệp THPT, tuổi đời còn trẻ, sức khỏe tốt, ham hiểu biết, khả năng tiếp thu nhanh. Tuy nhiên, các em sinh viên còn thiếu kinh nghiệm thực tế nhất là thực tiễn hoạt động quân sự, kỹ năng, khả năng thích ứng với môi trường mới còn hạn chế. Đặc biệt học GDQP&AN sinh viên phải học tập, rèn luyện tập trung trong môi trường quân đội, bỏ qua các thói quen, xa rời các tiện nghi sinh hoạt tại gia đình (kể cả ĐTDĐ), phải hoạt động theo khuôn khổ, kỷ luật, kỷ cương từ đó đã tạo ra sự ức chế về tâm lý gây khó khăn trong tiếp thu nội dung học tập.

Đội ngũ giảng viên: Là người trực tiếp truyền thụ kiến thức và hướng dẫn thực hành cho sinh viên để sinh viên tiếp thu và rèn luyện, biến kiến thức, năng lực của thầy thành của mình. Giảng viên làm công tác GDQP&AN hiện nay gồm đội ngũ sĩ quan biệt phái, giảng viên đào tạo chuyên ngành GDQP&AN, phần lớn đã có trình độ sau đại học, đội ngũ giảng viên đều được đào tạo cơ bản về lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ quân sự có phẩm chấp và năng lực sư phạm đáp ứng với yêu cầu giảng dạy ở bậc đại học. Tuy nhiên, một lực lượng cơ bản đội ngũ giảng viên được đào tạo theo Đề án 607, đội ngũ này chưa được rèn luyện trong môi trường quân đội, các kiến thức quân sự còn rời rạc, chưa có nhiều thời gian rèn luyện cả về tâm lý, sức khỏe, kỹ năng thực hành do đó khi thực hành giảng dạy các nội dung thực hành cũng còn nhiều hạn chế.

Điều kiện huấn luyện: Thao trường, bãi tập là môi trường để giảng viên và sinh viên tổ chức các hoạt động dạy học. Điều kiện huấn luyện thuận lợi giúp giảng viên vận dụng các phương pháp huấn luyện thực hành một cách có hiệu quả, đồng thời giúp sinh viên tiếp thu kiến thức và rèn luyện năng lực thực hành tốt hơn góp phần thực hiện được mục đích yêu cầu của bài học. Trên thực tế, điều kiện thao trường, bãi tập của các trung tâm cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu môn học, không gian hạn chế, địa hình chưa sát với yêu cầu huấn luyện, hệ thống thao trường nhiều trung tâm còn chưa được quan tâm và đầu tư xây dựng chưa cơ bản, trong khi đối tượng người học đông, đa dạng đã chi phối rất nhiều tới chất lượng huấn luyện và luyện tập.

Tổ chức và phương pháp huấn luyện: Trong huấn luyện quân sự, việc tổ chức lớp học và tuân thủ phương pháp là nội dung quyết định tới hiệu quả bài học. Tổ chức lớp học phù hợp sẽ giúp sinh viên quan sát, học theo nắm nội dung nhanh hơn, có điều kiện luyện tập được nhiều hơn từ đó sớm biến kiến thức của thầy thành kiến thức của mình. Thực tế hiện nay, các cơ sở giáo dục đại học hằng năm đều tăng số lượng tuyển sinh, trong khi quy hoạch các trung tâm cơ bản ổn định, các cơ sở giáo dục hướng tới hoàn toàn việc tự chủ tài chính, do đó điều kiện nguồn nhân lực, cơ sở vật chất không theo kịp với xu thế phát triển, tổ chức lớp học còn đông so với quy định khi huấn luyện thực hành, triển khai luyện tập khó khăn, số lượng sinh viên được luyện tập ít, vì vậy chất lượng huấn luyện thực hành còn hạn chế.

Cùng với việc tổ chức lớp học khoa học thì phương pháp huấn luyện, tổ chức luyện tập tốt cũng sẽ giúp sinh viên dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo. Phương pháp huấn luyện khoa học cũng sẽ giúp lôi cuốn người học, không bị nhàm chán, tích cực chủ động hơn trong luyện tập. Tuy nhiên, phương pháp huấn luyện của không ít giảng viên còn chưa phù hợp, kỹ năng sư phạm hạn chế, còn cứng nhắc, dập khuôn; chưa tận dụng hết các điều kiện thao trường để tổ chức luyện tập; phương pháp luyện tập chưa phù hợp, chưa thực hiện đúng nguyên tắc từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, nóng vội, đốt cháy giai đoạn.

Kiểm tra, đánh giá hoạt động huấn luyện thực hành: Kết quả học tập môn học thể hiện ở hệ thống kiến thức tổng hợp của môn học cả về lý thuyết và thực hành. Kết quả học tập môn học GDQPAN còn thể hiện sự tích luỹ về lượng tạo ra sự chuyển biến về trình độ năng lực quân sự và thái độ của sinh viên trong quá trình học tập GDQP&AN, ý thức trách nhiệm với nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Công tác đánh giá kết quả dưới nhiều hình thức, vấn đáp, thực hành động tác, thành tích thực tế đã buộc người học phải tổng hợp nhiều kỹ năng tạo áp lực tâm lý.

 Trên cơ sở những đặc điểm và yếu tố chi phối trong huấn luyện và luyện tập nội dung thực hành môn học GDQP&AN, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản sau:

Giải pháp nâng cao chất lượng huấn luyện và tổ chức luyện tập nội dung thực hành cho sinh viên tại các Trung tâm GDQP&AN.

Một là: Tiếp tục đổi mới nội dung huấn luyện thực hành gắn với phát huy tính tự giác, tích cực, sáng tạo của sinh viên trong luyện tập.

Đây là yêu cầu cơ bản, cốt lõi, nhằm nâng cao kết quả huấn luyện thực hành góp phần nâng cao chất lượng môn học. Xuất phát từ đặc điểm nội dung thực hành quân sự có tính tổng hợp cao, với mục tiêu giúp sinh viên nhận thức được ý nghĩa, tác dụng của từng kỹ năng, hành vi được hình thành, nắm được các kỹ năng thực hành để có biết vận dụng các kỹ năng, hành vi ấy vào thực tiễn. Nội dung huấn luyện phải cho sinh viên thử nghiệm thái độ vừa lĩnh hội được qua thực hành vận dụng các kỹ năng vào các tình huống cụ thể. Thông qua hoạt động, trao đổi, thảo luận tập thể mà kiểm nghiệm tính khách quan, đúng đắn kiến thức được trang bị.

Vì vậy, đổi mới nội dung huấn luyện vừa là yêu cầu, vừa là nội dung, vừa là biện pháp, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng môn học. Đổi mới nội dung là cơ sở để đổi mới phương pháp, đổi mới phương pháp để sinh viên tiếp thu nội dung tốt hơn. Đổi mới phải hướng vào sinh viên, lấy sinh viên làm trung tâm và phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên. Đổi mới không phải loại bỏ toàn bộ nội dung quy định để thiết lập nội dung mới mà là sự lựa chọn có kế thừa các nội dung đã huấn luyện. Đây chính là sự nghiên cứu lựa chọn, điều chỉnh, sắp xếp các nội dung môn học cho phù hợp với đối tượng, mục tiêu, yêu cầu, quy trình đào tạo, thời gian môn học, quy luật kiến thứ giúp sinh viên tiếp thu kiến thức có trình tự học nội dung trước để vận dụng vào học nội dung sau. Thông qua thực tế giảng dạy, nhiều nội dung sinh viên đã được trang bị từ cấp THPT, tuy nhiên có nội dung cần thiết phục vụ cho các bài học trong chương trình sinh viên lại chưa được học từ đó gây khó khăn cho tổ chức tiếp cận kiến thức và tổ chức luyện tập. Vì vậy, cũng cần có hướng điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung chương trình đào tạo, mặt khác trong từng bài học giảng viên cũng cần nghiên cứu lựa chọn nội dung không dàn trải, chạy theo khối lượng kiến thức mà không chú ý đến rèn luyện kỹ năng cho người học.

Hai là: Tuân thủ nghiêm túc các qui định trong tổ chức, phương pháp huấn luyện và luyện tập.

Huấn luyện thực hành đòi hỏi người học vừa có điều kiện quan sát, vừa có điều kiện luyện tập biến kiến thức của thầy thành kỹ năng trong thực tiễn. Trong đó kỹ năng của sinh viên không tự có ngay mà phải được luyện tập nhiều lần, để đáp ứng được yêu cầu này đòi hỏi khi tổ chức huấn luyện thực hành phải thực hiện đúng quy định (đội hình đại đội chia 2) với lưu lượng 1 lớp học tối đa 60 sinh viên. Với quân số trên sẽ bảo đảm sinh viên lĩnh hội được kiến thức được tốt nhất, luyện tập xoay vòng được được nhiều nhất. Tổ chức như vậy sẽ củng cố được kiến thức về các nội dung có liên quan cho sinh viên, đồng thời làm cho sinh viên không bị nhàm chán trong quá trình luyện tập, sẽ đạt hiệu quả học tập cao hơn.

Bố trí thời gian huấn luyện nội dung thực hành mỗi buổi học phải phù hợp với nội dung, không bố trí quá dài có như vậy mới giúp sinh viên không bị căng thẳng mỏi mệt, giúp điều hoà về trí lực, thể lực; cũng không nên bố trí ngắn quá vì thời gian để cơ động chuyển nội dung, tổ chức triển khai vật chất, đổi địa điểm, thao trường mất nhiều sẽ ảnh hưởng tới thời gian học. Vì vậy bố trí thời gian hợp lý sẽ là cơ sở để nâng cao chất lượng huấn luyện và luyện tập.

Phương pháp huấn luyện: Do nội dung huấn luyện thực hành đa dạng, cả kỹ thuật, chiến thuật, điều lệnh, thể lực, từng nội dung có những đặc thù khác nhau, vì vậy, giảng viên phải biết căn cứ ý định huấn luyện, đối tượng, mục đích, yêu cầu, nội dung huấn luyện, điều kiện bảo đảm cơ sở vật chất thao trường bãi tập  để nghiên cứu vận dụng các phương pháp huấn luyện cơ bản cho phù hợp nhằm đạt được hiệu quả huấn luyện cao nhất. Khi sử dụng các phương pháp huấn luyện thực hành, giảng viên phải mô phỏng được nhiều mặt, nhiều khía cạnh, mức độ của hoạt động sát với thực tiễn thông qua việc lựa chọn sắp xếp, thiết kế các bài học, các tình huống thực hành để truyền thụ cho sinh viên lĩnh hội các tri thức, kỹ năng thực hành một cách nhanh nhất. Trong đó cần trú trọng vận dụng phương pháp trực quan kết hợp với PPDH tích cực, lấy phương pháp dạy học trực quan là phương pháp cơ bản, chủ đạo giúp sinh viên dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo. Vận dụng phương pháp này sẽ kích thích tính tự giác, tích cực, sáng tạo trong nhận thức và hành vi của sinh viên, khắc phục và loại trừ được cách thức huấn luyện nặng nề về truyền thụ lý thuyết trong quá trình huấn luyện các nội dung thực hành. Đồng thời phải khơi dậy tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập thông qua giáo dục ý thức trách nhiệm xây dựng động cơ học tập cho sinh viên.

Để tăng cường tính thực tiễn trong các phương pháp huấn luyện thực hành, trong quá trình huấn luyện phải tạo điều kiện tối đa cho sinh viên được thực hành luyện tập để hình thành kỹ năng, đồng thời phải tạo ra được sự gắn bó giữa huấn luyện với thực tiễn vận dụng trong sinh hoạt khi học tập tại trung tâm cũng như biết vận dụng ở các môi trường và thực tế chiến trường. Đồng thời xây dựng ý thức trách nhiệm và lòng tin tạo cho sinh viên sự vững vàng, tự tin, không bị bỡ ngỡ khi đối mặt với tình huống thực tiễn.

Kết hợp vận dụng linh hoạt phương pháp huấn luyện thực hành với việc ứng dụng công nghệ, sử dụng các công nghệ mô phỏng, để chứng minh tính trung thực của nội dung giảng dạy, xây dựng lòng tin cho người học.

Ba là: Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên

Từ kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến cho thấy, mọi cuộc cải cách nâng cao chất lượng giáo dục đều khởi nguồn và giành thắng lợi từ đội ngũ giáo viên. Xuyên suốt công cuộc đổi mới giáo dục, Đảng ta luôn khẳng định đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng GD-ĐT.

 Với tư cách người trực tiếp giảng dạy và quản lý công tác GDQP&AN cho sinh viên, giảng viên vừa là người thiết kế nội dung, vừa là người tổ chức, định hướng, hướng dẫn trong toàn bộ quá trình học tập, rèn luyện, vừa là người kiểm tra đánh giá kết quả toàn diện của sinh viên. Chất lượng huấn luyện thực hành phụ thuộc phần lớn vào tài nghệ sư phạm của người giảng viên, đòi hỏi giảng viên phải có kiến thức sâu rộng và vận dụng các phương pháp huấn luyện thực hành cơ bản một cách thành thục, linh hoạt, sáng tạo mới làm cho sinh viên nắm chắc, hiểu sâu và vận dụng tốt các bài học thực hành vào thực tiễn. Bên cạnh đó GDQP&AN là môn học có tính đặc thù cả về nội dung, hình thức tổ chức và phương pháp tiến hành, ... đặc biệt là phải đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Vì vậy, nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên không chỉ là một nhiệm vụ cấp bách, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của các Trung tâm và còn phản ánh xu thế tất yếu của sự nghiệp giáo dục. Để đội ngũ giảng viên QP&AN ngày càng đáp ứng tốt yêu cầu các trung tâm cần quán triệt và thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Tiếp tục giáo dục quán triệt sâu sắc nhằm nâng cao nhận thức cho đội ngũ cho giảng viên nhận thức đúng đắn và hiểu rõ ý nghĩa tầm quan trọng của môn học, thấy được vinh dự và trách nhiệm của mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng nền QPTD, thế trận CTND thực hiện thắng lợi chiến lược BVTQ Việt Nam XHCN trong tình hình mới theo quan điểm của Đảng.

Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn thông qua các đợt tập huấn của Vụ GDQP&AN, các trung tâm, các đơn vị quản lý SQBP để tiếp thu những kiến thức mới, tổ chức phương pháp huấn luyện thực hành, làm cơ sở cho đội ngũ giảng viên nghiên cứu vận dụng trong quá trình huấn luyện thực hành đạt hiệu quả cao. Lựa chọn các chuyên đề tập huấn phải căn cứ vào tình hình thực tế và trình độ năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên còn yếu, còn thiếu, những nội dung còn chưa thống nhất, hiệu quả trên thực tế còn thấp để bổ sung cho hoàn thiện, bảo đảm tính cơ bản, thiết thực đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Tổ chức nghiêm túc kế hoạch hoạt động phương pháp của trung tâm, khoa, tổ bộ môn để bồi dưỡng về trình độ năng lực huấn luyện thực hành cho đội ngũ giảng viên một cách thường xuyên. Hằng tháng, khoa, tổ bộ môn phải có kế hoạch hoạt động phương pháp cụ thể để trực tiếp bồi dưỡng về tổ chức và phương pháp huấn luyện thực hành cho giảng viên như soạn thảo bài giảng, kế hoạch giảng bài; tổ chức thông qua bài, xây dựng bài giảng mẫu; hướng dẫn giảng viên nghiên cứu viết chuyên đề, đề tài khoa học về tổ chức và phương pháp huấn luyện thực hành của bộ môn..., nhằm không ngừng nâng cao trình độ lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho giảng viên, tạo điều kiện cho giảng viên phát huy những mặt mạnh của mình và kịp thời khắc phục những thiếu sót, nhược điểm về vận dụng phương pháp trong quá trình huấn luyện.

Thường xuyên có công tác kiểm tra, kịp thời rút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy. Ở từng khóa học tổ chức lấy ý kiến phản hồi của sinh viên, kịp thời điều chỉnh những thiếu sót, chưa phù hợp nhằm nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm, năng lực tổ chức và thực hiện nhiệm vụ GDQP&AN. Thực hiện tốt phương châm “mỗi giảng viên thực sự là tấm gương sáng trong nhận thức và hành động để sinh viên noi theo” qua đó tạo được sự thuyết phục, niềm tin cho người học.

Bốn là: Tăng cường tổ chức luyện tập trên thực địa cho sinh viên

Tăng cường tổ chức luyện tập để sinh viên có thể áp dụng kiến thức vào tình huống thực tế giúp cải thiện kỹ năng ứng phó và ra quyết định. Luyện tập là quá trình lặp đi lặp lại nhiều lần cho các động tác, thao tác, hành động nhất định một cách có ý thức nhằm hình thành, hoàn thiện, củng cố các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết và bồi dưỡng năng lực hành động độc lập, rèn luyện tính kiên trì nhẫn nại cho sinh viên. Giảng viên phải tổ chức cho sinh viên luyện tập theo trình tự các bước tập từ thấp đến cao, từ phân đoạn đến tổng hợp, từ đơn giản đến phức tạp, từ chậm đến nhanh để nâng dần năng lực thực hành cho sinh viên. Để tổ chức luyện tập có hiệu quả việc tổ chức lớp học phải bảo đảm đúng quy định, kể cả số lượng sinh viên và vũ khí trang bị. Quá trình duy trì luyện tập, giảng viên phải tạo sự hứng thú cho sinh viên đối với nội dung luyện tập, thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả luyện tập của sinh viên trong từng buổi học để phân loại đối tượng, kịp thời sửa tập, khắc phục những sai sót bảo đảm cho sinh viên nắm được kỹ thuật động tác trên cơ sở đó giúp sinh viên có thái độ tự giác và trách nhiệm khi luyện tập.

Năm là: Đổi mới kiểm tra đánh giá hoạt động huấn luyện thực hành

Thi, kiểm tra đánh giá kết quả là một khâu rất quan trọng của quá trình dạy học. Vì vậy nội dung phương pháp thi, kiểm tra đánh giá kết quả sẽ có tác động to lớn, trực tiếp đến tất cả các khâu, các bước, các thành tố của quá trình dạy học. Kết quả thi, kiểm tra là sản phẩm của quá trình dạy - học mà trước hết là kết quả trực tiếp của quá trình tổ chức huấn luyện và luyện tập.

Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới nội dung phương pháp ôn, thi, kiểm tra đánh giá kết quả và ngược lại đổi nới nội dung, phương pháp ôn, thi, kiểm tra và đánh giá kết quả là động lực để đổi mới nội dung, phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả dạy học. Nội dung, phương pháp ôn, thi, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của sinh viên không chỉ đơn thuần là yêu cầu sinh viên tái hiện đầy đủ kiến thức đã học có trong tài liệu, giáo trình, mà còn kiểm tra để đánh giá khả năng vận dụng linh hoạt các kiến thức đó vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra; kỹ năng về sử dụng vũ khí trang bị, thuần thục về các động tác bắn, ném lựu đạn và khả năng diễn đạt, trình bày những nội dung để đáp ứng với yêu cầu huấn luyện và chiến đấu sau này.

Phương pháp thi, kiểm tra các nội dung quân sự tập trung lựa chọn phương pháp thi thực hành để đánh giá các kỹ năng, kỹ xảo đạt được của sinh viên trong huấn luyện. Để tiến hành thi, kiểm tra giảng viên phải xác định rõ ý định kiểm tra gồm: mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp, thời gian, địa điểm, vật chất bảo đảm, người phục vụ..., báo cáo cấp trên phê chuẩn. Mặt khác, giảng viên phải xác định rõ tiêu chuẩn đánh giá kết quả thi, kiểm tra một cách cụ thể, tỉ mỉ để bảo đảm sự thống nhất, công bằng, khách quan, chính xác, khi đánh giá kết quả thực hành kỹ thuật của sinh viên.

Như vậy, nội dung phương pháp tổ chức thi, kiểm tra đánh giá kết quả rất toàn diện bao gồm cả yêu cầu về tri thức, kỹ năng thực hành. Nội dung thi, kiểm tra phải bao quát được toàn bộ khối lượng kiến thức đã học, đánh giá kết quả bảo đảm khách quan, trung thực, công khai và minh bạch. Thông qua đó giúp người dạy phải thay đổi nội dung phương pháp dạy cho phù hợp và sinh viên cũng phải thay đổi cách học để phát huy khả năng độc lập, tư duy, sáng tạo, không còn hiện tượng "học tủ", "học vẹt". Việc đổi mới thi, kiểm tra đánh giá kết quả không chỉ tác động tích cực cho việc đổi mới phương pháp dạy học mà còn khiến sinh viên phải đổi mới cả cách học nhằm phát huy tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo trong quá trình học tập.

Sáu là: Thực hiện tốt công tác đảm bảo điều kiện huấn luyện

Cơ sở vật chất, vũ khí trang bị, phương tiện dạy học, thao trường bãi tập tác động trực tiếp tới quá trình huấn luyện và phản ánh mối quan hệ hữu cơ giữa phương pháp và phương tiện để đạt hiệu quả cao trong huấn luyện. Thao trường bãi tập được quy hoạch xây dựng chính quy, hiện đại sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên trình bày bài giảng sinh động, hấp dẫn hơn, rút ngắn được thời gian huấn luyện, nâng cao hiệu quả truyền thụ tri thức cho sinh viên, đồng thời sinh viên có điều kiện thuận lợi để luyện tập, rèn luyện thành thạo các kỹ năng thực hành đáp ứng với yêu cầu, phát huy được tư duy sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập, giúp cho họ có thể vận dụng vào hoạt động thực tiễn có hiệu quả.

Phương tiện, vật chất huấn luyện được chuẩn bị đầy đủ, sát với thực tế sẽ có tác dụng thiết thực nâng cao hiệu quả của quá trình huấn luyện thực hành. Đó chính là phương tiện để giảng viên truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cho sinh viên, đồng thời là nguồn kiến thức, là phương tiện giúp cho sinh viên tiến hành có hiệu quả việc lĩnh hội các kiến thức, năng lực thực hành, hình thành các kỹ năng thực hành trong quá trình học tập.

Để truyền thụ và lĩnh hội một nội dung thực hành nào đó, đòi hỏi phải vận dụng các phương pháp huấn luyện thực hành cơ bản sao cho phù hợp với đặc điểm tính chất nội dung và điều kiện huấn luyện thực hành. Vì vậy phải luôn quan tâm chú ý tới việc nâng cao chất lượng đảm bảo thao trường bãi tập, phương tiện vật chất phù hợp với ý định sử dụng các phương pháp huấn luyện thực hành cơ bản nhằm nâng cao chất lượng huấn luyện các bài học thực hành.

Các trung tâm cần nghiên cứu quy hoạch hệ thống thao trường bãi tập để huấn luyện thực hành các môn kỹ thuật, chiến thuật bảo đảm tính chính quy hiện đại, đồng thời có kế hoạch bảo đảm phương tiện, cơ sở vật chất huấn luyện đầy đủ, có chất lượng tốt, sát với thực tế, tạo điều kiện thuận lợi để giảng viên truyền thụ cho sinh viên, đồng thời giúp cho sinh viên lĩnh hội kiến thức và rèn luyện các kỹ năng thực hành. Trong điều kiện không gian, vị trí địa lý, tổng thể quy hoạch ở tùng trung tâm cần bố trí và xây dựng thao trường huấn luyện phải bảo đảm cơ bản, có đầy đủ mô hình, thiết bị bố trí, phải ưu tiên không gian để triển khai huấn luyện, luyện tập. Trường hợp không có điều kiện sát với thực tiễn phải có các giải pháp kỹ thuật như thu nhỏ mô hình, rút ngắn cự ly, trang bị triển khai luyện tập linh hoạt để tận dụng mọi điều kiện cho sinh viên luyện tập. Tập trung nghiên cứu các mô hình, sáng kiến có tính ứng dụng cao, trường hợp có điều kiện tập trung xây dựng thiết bị mô phỏng đưa người học vào sát thực tế chiến trường.

Trong thời gian qua, công tác GDQP&AN cho sinh viên đã được các cấp, các ngành từ Trung ương tới địa phương, các cơ sở giáo dục quan tâm và coi trọng. Hiệu quả công tác này đã được thể hiện thông qua sự chuyển biến tích cực cả trong nhận thức và hành động của sinh viên. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai vẫn còn những hạn chế, nhất là các kỹ năng quân sự trong thực tiễn của sinh viên chưa đáp ứng mục tiêu đào tạo. Vì vậy, chuyên đề tập trung phân tích, đánh giá những đặc điểm, yếu tố tác động từ đó đề xuất đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng môn học GDQP&AN nói chung và chất lượng huấn luyện và tổ chức luyện tập nội dung thực hành cho sinh viên nói riêng, đó là: tiếp tục nghiên cứu đổi mới nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp huấn luyện; đổi mới công tác thi, kiểm tra đánh giá kết; bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên; đổi mới, tăng cường hiệu quả việc tổ chức luyện tập thực hành trên thực địa và thực hiện tốt công tác đảm bảo. Đây là những biện pháp căn cốt, quán triệt và thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ trực tiếp nâng cao chất lượng huấn luyện và luyện tập các nội dung thực hành môn học GDQP&AN cho sinh viên tại các trung tâm GDQP&AN trong thời gian tới./.

 

Tăng cường liên kết, nâng cao chất lượng GDQP&AN

TĂNG CƯỜNG LIÊN KẾT, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Thời gian qua, các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQPAN) trong cả nước đã phát huy tốt vai trò, chức năng, góp phần giáo dục cho sinh viên lòng yêu nước, niềm tự hào và sự trân trọng đối với truyền thống của dân tộc; trang bị kiến thức cơ bản về QPAN và những kỹ năng quân sự cần thiết để sinh viên nhận thức đầy đủ hơn quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nơi rèn luyện và hình thành nhân cách
Đề cập về công tác GDQPAN cho học sinh, sinh viên, Trung tướng Nguyễn Duy Nguyên, Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ (Bộ Tổng tham mưu), Trưởng ban Thư ký Hội đồng GDQPAN Trung ương cho hay: “Giáo dục QPAN cho sinh viên là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, là môn học chính khóa ở các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp, giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong công tác quốc phòng của Đảng. Thông qua giáo dục nhằm bồi dưỡng kiến thức QPAN, khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn của dân tộc cho sinh viên. Do đó, việc tổ chức hoạt động của trung tâm GDQPAN, liên kết GDQPAN với các trường đại học, cao đẳng có ý nghĩa hết sức quan trọng và thiết thực trong giai đoạn hiện nay”.
Theo đánh giá của Hội đồng GDQPAN Trung ương và khảo sát ở một số trung tâm GDQPAN, chúng tôi nhận thấy, những năm qua, mặt công tác này được các cơ quan, đơn vị đã quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nghị định của Chính phủ, thường xuyên bám sát sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo để xây dựng nội dung chương trình, đề cương môn học đúng quy định, sát tình hình thực tiễn. Ngoài việc được trang bị các kiến thức, kỹ năng quân sự, sinh viên còn được rèn luyện, trải nghiệm trong môi trường quân đội. Đây là điều kiện, cơ sở quan trọng để sinh viên hình thành nhân cách, tính tổ chức, tính tập thể, tính kỷ luật, bảo đảm phát triển toàn diện.
Khắc phục tâm lý cho rằng môn học GDQPAN là khô khan, nhàm chán, trong quá trình giảng dạy, Trung tâm GDQPAN Hà Nội 1 luôn chú trọng kết hợp giữa lý thuyết với thực hành, gắn lý luận với thực tiễn. Trung tâm chỉ đạo Phòng Đào tạo và các khoa giáo viên chú trọng tăng thời gian huấn luyện thực hành và tổ chức các hoạt động bổ trợ, ngoại khóa, khắc phục tình trạng giảng dạy lý luận chung chung, dàn trải. Theo đó, đội ngũ giảng viên nghiên cứu kỹ đối tượng, chuyên ngành đào tạo của sinh viên để biên soạn giáo án, chuẩn bị bài giảng cho phù hợp, sát đối tượng giảng dạy. Bài giảng luôn bảo đảm cập nhật thông tin, có minh họa bằng tranh, ảnh, video về hoạt động quân sự, QPAN…

Một giờ học lý thuyết Giáo dục quốc phòng và an ninh của các sinh viên
Tăng cường liên kết giữa trung tâm với các trường
Từ khi thành lập đến nay, Trung tâm GDQPAN thuộc Trường Đại học Hải Phòng đã tổ chức 108 đợt GDQPAN cho hơn 120.000 lượt học sinh, sinh viên. Chất lượng giáo dục của trung tâm được các nhà trường đánh giá cao. Đạt được kết quả trên là do trung tâm luôn coi trọng việc phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của Quân khu 3 rà soát, kiện toàn đội ngũ cán bộ, hoàn thiện tổ chức, biên chế; đẩy mạnh đầu tư, xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên, lưu lượng sinh viên về học tập tại trung tâm phụ thuộc vào số lượng sinh viên của Trường Đại học Hải Phòng và các trường liên kết. Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, trung tâm luôn coi trọng giải quyết tốt việc kết hợp với các trường liên kết trong chuẩn bị, tổ chức GDQPAN cho sinh viên. Hằng năm, trung tâm chủ động liên hệ với các trường liên kết nắm kết quả tuyển sinh, trên cơ sở đó tiến hành xây dựng kế hoạch năm học, kế hoạch học tập từng đợt, kế hoạch giảng dạy, các hoạt động bổ trợ, công tác quản lý sinh viên. Cùng với đó, trung tâm duy trì tổ chức hội nghị liên kết GDQPAN nhằm chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời khắc phục những mặt còn hạn chế trong tổ chức, chỉ đạo, quản lý dạy học và bảo đảm. Cách làm này đã phát huy hiệu quả, tăng sự gắn kết giữa trung tâm với các trường hướng vào thực hiện tốt môn học.
Là trung tâm GDQPAN lớn của khu vực trung du miền núi phía Bắc, những năm qua, Trung tâm GDQPAN Đại học Thái Nguyên đã có nhiều biện pháp nâng cao chất lượng GDQPAN. Đảng ủy, chỉ huy trung tâm kịp thời đề ra các chủ trương, biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng, hiệu quả GDQPAN cho học sinh, sinh viên. Trong đó, chủ động hiệp đồng các nhà trường thống nhất nội dung, chương trình, thời gian, nắm vững đối tượng, điều kiện cơ sở vật chất, bãi tập… để xây dựng kế hoạch giảng dạy khoa học, hạn chế thấp nhất những sai sót. Những năm trước đây, trung tâm tiếp nhận sinh viên năm thứ nhất, do các em chưa được chuẩn bị về tâm lý và còn bỡ ngỡ với môi trường học tập, rèn luyện, nên ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả cuối kỳ. Vì vậy, từ năm học 2016-2017, trung tâm chủ động tham mưu và hiệp đồng với các trường, tiếp nhận sinh viên học từ năm thứ hai, nên chất lượng dạy, học được nâng lên rõ rệt.
Đẩy nhanh tiến độ quy hoạch và thành lập trung tâm
Mới đây, Ban Thường trực Hội đồng GDQPAN Trung ương tổ chức hội nghị đánh giá việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước; sự phối hợp trong chỉ đạo, quản lý, điều hành của các cơ quan chức năng về những vấn đề liên quan đến công tác GDQPAN. Theo đó, thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương đã phối hợp chặt chẽ trong tổ chức thực hiện; công tác bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên được quan tâm đầu tư, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tính đến nay, đã có 30 trung tâm GDQPAN được quy hoạch thành lập mới, trong đó 9 trung tâm đã có quyết định thành lập. Tuy nhiên, tại hội nghị, các đại biểu cũng thẳng thắn chỉ rõ một số hạn chế, như: Việc phân luồng liên kết giữa các trung tâm GDQPAN với các trường cao đẳng, cơ sở giáo dục đại học còn có khu vực, địa phương chưa hợp lý; một số nhà trường chưa thực hiện liên kết giáo dục quốc phòng; nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ chủ chốt về công tác GDQPAN chưa toàn diện; các trung tâm đã có và các trung tâm mới được quy hoạch vẫn chưa có quyết định gây khó khăn trong đầu tư xây dựng và tổ chức thực hiện liên kết…
Theo Trung tướng Nguyễn Duy Nguyên, để khắc phục những hạn chế trên, thời gian tới, các trung tâm GDQPAN tiếp tục thực hiện nghiêm túc Quyết định số 161 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, các bộ chủ quản, Chủ tịch UBND các tỉnh sớm ban hành quyết định tổ chức lại và thành lập trung tâm GDQPAN theo thẩm quyền, nhà trường quân đội thành lập trung tâm GDQPAN theo quyết định của Bộ Quốc phòng để các trung tâm có đủ tư cách pháp lý, pháp nhân lập dự án đầu tư và đi vào hoạt động, cấp chứng chỉ môn học cho học sinh, sinh viên. Nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh việc liên kết đào tạo GDQPAN cho sinh viên phù hợp với điều kiện thực tế của từng trung tâm. Muốn đạt được mục tiêu đó, trước hết phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật về GDQPAN nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của các cơ quan, tổ chức và học sinh, sinh viên. Đồng thời, phát huy vai trò tham mưu, chỉ đạo của Hội đồng GDQPAN các cấp, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức và địa phương, các trường cao đẳng, cơ sở giáo dục đại học trong thực hiện các quy định về GDQPAN…
Bài và ảnh: LÊ DUY HỒNG
Nguồn: Báo Quân đội nhân dân
 

Tăng cường GDQP&AN cho học sinh, sinh viên

TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
Giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên là nội dung học tập đặc thù trong các nhà trường, nhằm nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm cho thế hệ trẻ đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình hiện nay, công tác này càng trở nên quan trọng, cấp thiết.
        Trước yêu cầu cao của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng, Nhà nước ta chủ trương tăng cường công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân nói chung, học sinh, sinh viên nói riêng, thông qua việc ban hành Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, làm cơ sở triển khai tổ chức thực hiện thống nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trong đó, Chương II của Luật quy định rõ: giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường tiểu học, trung học cơ sở được thực hiện lồng ghép thông qua nội dung các môn học trong chương trình; trong trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, cao đẳng nghề, cơ sở giáo dục đại học là môn học chính khóa. Đây là một bước tiến quan trọng về lập pháp, cơ sở để tổ chức triển khai hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng và an ninh, tạo nguồn nhân lực cho quốc phòng – an ninh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
         Quán triệt, triển khai Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, Quyết định 1911/QĐ-TTg, ngày 18-10-2013 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu, đề xuất với Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn tổ chức triển khai thực hiện công tác giáo dục quốc phòng và an ninh trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai ban soạn thảo đổi mới chương trình môn học, sách giáo khoa giáo dục quốc phòng và an ninh ở các cấp học: trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học. Theo đó, nội dung, chương trình đã được tăng cường kiến thức về bảo vệ chủ quyền biển đảo, biên giới quốc gia, kỹ năng quân sự phân cấp rõ ràng, tăng thời gian thực hành, v.v. Thông qua môn học, học sinh, sinh viên đã nhận thức đầy đủ hơn quan điểm, đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân của Đảng, có nhận thức rõ hơn về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; có kỹ năng quân sự cần thiết để phát triển nhân cách toàn diện, tự giác, sẵn sàng tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện, vẫn còn những tồn tại, hạn chế do công tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai ở một số địa phương, cơ quan, tổ chức chưa được coi trọng đúng mức. Đội ngũ giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh còn thiếu về số lượng, chất lượng chưa đáp ứng so với yêu cầu của môn học; cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, học tập chưa đầy đủ; chất lượng môn học ở một số trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, cao đẳng, đại học còn hạn chế, v.v.
         Để tiếp tục nâng cao chất lượng công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên, trong thời gian tới, các cơ sở giáo dục – đào tạo cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục về vị trí, vai trò của công tác giáo dục quốc phòng và an ninh, trọng tâm là Chỉ thị 12-CT/TW, ngày 03-5-2007 của Bộ Chính trị về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng – an ninh trong tình hình mới”, Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh trong toàn ngành Giáo dục để thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động. Đồng thời, tập trung thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:
         Một là, đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy của môn học phù hợp với sự phát triển của thực tiễn.Giáo dục quốc phòng và an ninh là môn học đặc thù, đã được luật hóa, có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan bám sát mục tiêu, yêu cầu môn học ở từng cấp học, trình độ đào tạo, nghiên cứu, điều chỉnh nội dung, chương trình, đảm bảo tính liên thông, không trùng lặp, có sự phân cấp rõ ràng, phù hợp với ngành nghề đào tạo của sinh viên. Trong đó, cần bổ sung thêm một số nội dung phần lịch sử Việt Nam cận đại, những bài học lịch sử, gương hy sinh anh dũng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thể hiện tinh thần, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta. Đồng thời, cung cấp cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền biển, đảo của Việt Nam, kiến thức về Luật Biển Việt Nam, Công ước liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và một số điều ước, v.v. Đối với nội dung thuộc về kỹ năng quân sự, cần được đổi mới theo hướng quy định từng nội dung huấn luyện cụ thể cho từng cấp học, gắn với vị trí, chức vụ nhất định trong Quân đội nhằm tránh sự trùng lặp. Mặt khác, do tính chất đặc thù của môn học nên việc xây dựng chương trình, nội dung, thời gian phải phù hợp với sự phát triển của khoa học nghệ thuật quân sự, tiến trình hiện đại hóa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong tình hình mới. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an ban hành chương trình khung về giáo dục quốc phòng và an ninh, thường xuyên điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với quá trình phát triển; đồng thời, quy định nội dung, hình thức tổ chức thực hiện môn học từ bậc tiểu học đến đại học. Chương trình trước đây chủ yếu đi sâu về kỹ thuật, chiến thuật chiến đấu bộ binh; do đó, để phù hợp điều kiện chiến tranh hiện đại, chương trình mới cần được xây dựng theo phân nhóm các chuyên ngành, lĩnh vực đào tạo, như: kỹ thuật, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn,… tương ứng với lĩnh vực, chuyên môn hoạt động của các quân chủng, binh chủng và binh chủng hợp thành trong Quân đội, nhằm phát huy năng lực, tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn người học.
         Đổi mới, có phương pháp giảng dạy khoa học sẽ giúp học sinh, sinh viên hăng say học tập, bộc lộ tài năng quân sự, làm cơ sở phát hiện, tuyển chọn, tạo nguồn nhân lực cho xây dựng lực lượng vũ trang, coi trọng đổi mới phương pháp giảng dạy môn học, đặc biệt chú ý đến những nội dung hoạt động đặc thù của lĩnh vực quân sự; giảm thời gian dạy lý thuyết, tăng thời gian học thực hành kỹ năng quân sự, kết hợp với tham quan thực tế tại các đơn vị sẵn sàng chiến đấu của quân chủng, binh chủng gắn với ngành học của học sinh, sinh viên. Qua đó, giúp học sinh, sinh viên trưởng thành toàn diện, tự tin, có kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
         Hai là, xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh đảm bảo số lượng, chất lượng.Để xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, đáp ứng yêu cầu môn học, thời gian qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các quyết định phê duyệt Đề án đào tạo giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh1. Phấn đấu đến năm 2020, bảo đảm đào tạo đáp ứng được 90% nhu cầu giáo viên và 70% nhu cầu giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh giảng dạy ở các trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, cao đẳng nghề và các cơ sở giáo dục đại học. Thực hiện mục tiêu này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã mở mã ngành đào tạo cử nhân giáo dục quốc phòng và an ninh, kết hợp chiêu sinh, cử tuyển đào tạo văn bằng 2; đồng thời, lựa chọn, giao chỉ tiêu đào tạo cho các sở giáo dục và đào tạo có đủ điều kiện. Để thu hút thí sinh đăng ký tuyển sinh đào tạo giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan đề xuất bảo đảm chế độ, tiêu chuẩn như học viên đào tạo sĩ quan; khi ra trường được xét phong quân hàm sĩ quan dự bị, ưu tiên tuyển dụng, v.v. Về lâu dài, để đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh yên tâm, gắn bó với công việc, cần có chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp, trước mắt thực hiện Thông tư liên tịch 15/2015/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH-BQP-BCA-BNV-BTC, ngày 16-7-2015 của liên Bộ: Giáo dục và Đào tạo, Lao động – Thương binh và Xã hội, Quốc phòng, Công an, Nội vụ, Tài chính về quy định chế độ, chính sách đối với cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh. Cùng với đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Quốc phòng nghiên cứu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ tăng cường sĩ quan biệt phái cho các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh, trường đại học, cao đẳng còn thiếu cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
         Ba là, chú trọng bảo đảm ngân sách, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên. Căn cứ Quyết định 1911/QĐ-TTg, ngày 18-10-2013 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Quốc phòng đẩy nhanh việc ban hành Thông tư quy định danh mục thiết bị dạy học và bộ mẫu thiết bị tối thiểu môn học giáo dục quốc phòng và an ninh của các trường trung học phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học (thay thế Thông tư 33/2009/TT-BGDĐT, ngày 13-11-2009), để làm cơ sở triển khai thực hiện thống nhất. Mặt khác, giáo dục quốc phòng và an ninh là môn học có tính đặc thù, đòi hỏi phải có hệ thống phòng học, giảng đường chuyên dùng, thao trường, bãi tập, trường bắn phù hợp và đầy đủ giáo trình, tài liệu, quân trang cho sinh viên, v.v. Do đó, các bộ, ngành chức năng cần quan tâm, tích cực phối hợp bảo đảm ngân sách kịp thời. Các nhà trường và cơ sở giáo dục chủ động khai thác nguồn ngân sách trên cấp và huy động các nguồn kinh phí xã hội hóa để đầu tư mua sắm cơ sở vật chất, các trang thiết bị dạy học, nâng cấp giảng đường, thao trường, đáp ứng yêu cầu của môn học. Cùng với đó, sớm triển khai thực hiện Thông báo 97/TB-VPCP, ngày 06-3-2014 của Văn phòng Chính phủ truyền đạt ý kiến của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan đề xuất không thu học phí môn học và tiền ăn của sinh viên trong quá trình học tập tập trung.
         Để nâng cao chất lượng môn học, giúp học sinh, sinh viên tiếp cận với các loại vũ khí, khí tài sát thực tế chiến đấu, rèn luyện bản lĩnh, ý chí, thành thạo kỹ năng quân sự, thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Quốc phòng thống nhất nghiên cứu, đề xuất cải hoán các loại vũ khí, khí tài cấp 5 đã qua sử dụng để từng bước trang bị cho các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên góp phần nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên; qua đó, nâng cao ý thức, trách nhiệm của thế hệ trẻ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thiếu tướng, TS, NGND. NGUYỄN THIỆN MINH
Vụ trưởng Vụ Giáo dục Quốc phòng – Bộ Giáo dục và Đào tạo
___________________

1 – Quyết định 472/QĐ-TTg, ngày 12-4-2010 về phê duyệt Đề án “Đào tạo giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh cho các trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề giai đoạn 2010 – 2016”; Quyết định 607/QĐ-TTg, ngày 24-4-2014 về phê duyệt Đề án “Đào tạo giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh cho các trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề và các cơ sở giáo dục đại học đến năm 2020”.
Nguồn: Tạp chí quốc phòng toàn dân
 

Phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của các Trung tâm GDQP&AN

PHÁT HUY VAI TRÒ, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Những năm qua, công tác giáo dục quốc phòng và an ninh tại các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh đã khẳng định được vai trò của mình bằng chất lượng, hiệu quả hoạt động. Điều đó góp phần quan trọng vào việc đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng và an ninh trong tình hình mới.
Hệ thống trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh (sau đây gọi tắt là trung tâm) được thành lập theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ1. Đến nay, cả nước theo qui hoạch có 62 trung tâm (42 trung tâm thuộc nhà trường quân đội, 20 trung tâm thuộc cơ sở giáo dục đại học); trong đó 30 trung tâm thuộc trường quân sự các quân khu, trường quân sự tỉnh, thành phố và các cơ sở giáo dục đại học đã đi vào hoạt động. Trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, các trung tâm đã quán triệt, cụ thể hóa Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nghị định của Chính phủ về giáo dục quốc phòng và an ninh sát với tình hình thực tiễn; đồng thời, tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy, chủ động khắc phục khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và sự thiếu hụt đội ngũ giảng viên. Hằng năm, các trung tâm đã tiến hành giáo dục quốc phòng và an ninh cho khoảng 28 vạn đến 32 vạn sinh viên (chiếm trên 35% tổng số sinh viên); bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho khoảng 3,5 vạn cán bộ, công chức, viên chức quản lý (đối tượng 2, đối tượng 3). Việc tổ chức giáo dục quốc phòng và an ninh tại các trung tâm đã khắc phục được tình trạng huấn luyện riêng lẻ, khép kín trong từng cơ sở giáo dục đại học; bảo đảm cho sinh viên được học tập, rèn luyện gắn liền với môi trường quân đội, cùng các loại vũ khí, khí tài quân sự và hệ thống thao trường, bãi tập sát thực tế; đồng thời, thống nhất được nội dung, chương trình giảng dạy, phát huy kỹ năng, kinh nghiệm huấn luyện quân sự của đội ngũ giáo viên, giảng viên là cán bộ quân đội.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên đội ngũ cán bộ, giáo viên của các trung tâm còn thiếu, kiến thức toàn diện về quốc phòng, an ninh cũng như phương pháp, kỹ năng sư phạm, trình độ chưa đạt chuẩn theo quy định của Luật Giáo dục. Việc quy định tổ chức, hoạt động của các trung tâm chưa đồng bộ, thống nhất; đầu tư xây dựng một số trung tâm chưa bảo đảm tiến độ; hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, thao trường, bãi tập còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu đặc thù của môn học. Cùng với đó, nhận thức của một bộ phận cán bộ, giáo viên, sinh viên về vị trí, vai trò của môn học chưa đầy đủ,… nên công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh ở các trung tâm vẫn còn những hạn chế, bất cập.
Để tiếp tục phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của các trung tâm, theo chúng tôi, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tăng cường quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác giáo dục quốc phòng và an ninh. Chất lượng, kết quả công tác giáo dục quốc phòng và an ninh phụ thuộc rất lớn vào nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức ở các trung tâm và cơ sở giáo dục đại học. Vì vậy, các trung tâm cần tăng cường quán triệt các văn bản, chỉ thị của Đảng, Chính phủ về công tác giáo dục quốc phòng và an ninh, trọng tâm là Chỉ thị 12-CT/TW, ngày 03-5-2007 (khóa X) của Bộ Chính trị “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng – an ninh trong tình hình mới”; Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh,… làm cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức nhận thức đúng vị trí, tầm quan trọng của công tác này. Đồng thời, chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kịp thời những kiến thức, thông tin mới về nhiệm vụ quốc phòng – an ninh hiện nay. Qua đó, nâng cao ý thức, trách nhiệm trong tổ chức thực hiện gắn với chức trách, nhiệm vụ được giao, tích cực đổi mới tư duy trong tổ chức giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh với hình thức, biện pháp sáng tạo, hiệu quả; khắc phục dứt điểm tình trạng khoán trắng cho các khoa, bộ môn và biểu hiện xem nhẹ môn học của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, giáo viên và sinh viên. Các trung tâm cần tăng cường các hoạt động ngoại khóa để củng cố kiến thức, giáo dục truyền thống đấu tranh của dân tộc, giúp người học nhận thức đúng đắn trách nhiệm, nghĩa vụ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, kiện toàn cơ cấu tổ chức, biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên của các trung tâm. Trên cơ sở Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, Quyết định 161/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư liên tịch 123/2015/TTLT-BQP-BGDĐT-BLĐTBXH,  ngày 05-11-2015 của Bộ trưởng các Bộ: Quốc phòng, Giáo dục và Đào tạo, Lao động – Thương binh và Xã hội về “Quy định tổ chức, hoạt động của trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh; liên kết giáo dục quốc phòng và an ninh của các trường cao đẳng, cơ sở giáo dục đại học”, các cơ quan chức năng cần tiếp tục phối hợp, đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, biên chế đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên ở các trung tâm đã được phê duyệt theo quy mô, lưu lượng sinh viên trong khu vực đảm nhiệm; chú trọng phát triển đội ngũ giáo viên cơ hữu phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng trung tâm. Các trung tâm cần tích cực phối hợp với cơ quan chức năng sớm hoàn thiện tư cách pháp nhân để có đủ điều kiện cấp chứng chỉ giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên và cấp chứng nhận hoàn thành chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng.
Để đội ngũ cán bộ, giáo viên có trình độ đạt chuẩn theo quy định của Luật Giáo dục, các trung tâm cần chủ động xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ, giáo viên cả trước mắt và lâu dài theo hướng “chuẩn hóa, trẻ hóa”, đảm bảo cân đối về cơ cấu độ tuổi, trình độ học vấn và kinh nghiệm giảng dạy, có sự kế thừa, vững chắc. Trước mắt, các trung tâm chủ động rà soát, có kế hoạch cử đi đào tạo một số ngành đối với các giáo viên còn thiếu tiêu chí đạt chuẩn, thay thế giáo viên kiêm nhiệm. Với các trung tâm do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, cần tạo nguồn tuyển mới đội ngũ cán bộ, giáo viên để dần thay thế đội ngũ sĩ quan biệt phái. Cùng với đó, các bộ, ngành chức năng cần phối hợp, hoàn thiện nội dung, chương trình, tăng chỉ tiêu, nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh trình độ đại học, bổ sung cho các trung tâm và các trường. Cùng với tuyển chọn, kiểm soát chất lượng nguồn đầu vào và đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, các trung tâm căn cứ vào tình hình thực tiễn, đặc thù hoạt động của mình để xây dựng hệ thống kỹ năng sư phạm cần thiết; tăng cường bồi dưỡng, tập huấn, hoạt động phương pháp, dự giờ, bình giảng, hội giảng để đội ngũ cán bộ, giáo viên học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy. Mặt khác, các trung tâm chủ động liên kết với các khoa, bộ môn của nhà trường trực thuộc hoặc các trường đại học, cao đẳng trong khu vực để tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng sư phạm, tin học, ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, giáo viên.
Ba là, quan tâm đầu tư, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các trung tâm, bảo đảm cơ sở vật chất, từng bước hiện đại hóa trang thiết bị dạy học. Hiện tại, các trung tâm thuộc nhà trường Quân đội có thuận lợi là sử dụng hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, vật liệu nổ quân dụng, thao trường, bãi tập, trường bắn của đơn vị chủ quản, trong khi phần lớn số trung tâm còn lại khó khăn về vấn đề này nên thường phải liên kết, phối hợp với các đơn vị Quân đội trên địa bàn để huấn luyện thực hành. Theo lộ trình đến năm 2020, cả nước sẽ thành lập đủ các trung tâm, đảm bảo đáp ứng nhu cầu giáo dục quốc phòng và an ninh cho khoảng 01 triệu sinh viên (đạt 90% tổng số sinh viên đại học, cao đẳng); bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho trên 90% cán bộ đối tượng 2 và đối tượng 3. Để thực hiện mục tiêu này, các cơ quan chức năng cần bảo đảm kịp thời ngân sách, kinh phí, đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện các trung tâm, nhất là hệ thống giảng đường, thao trường, bãi tập; từng bước hiện đại hóa các trang thiết bị dạy học. Bên cạnh nguồn ngân sách của Nhà nước, các trung tâm cần chủ động khai thác, huy động các nguồn lực khác để củng cố, nâng cấp thao trường, bãi tập; đầu tư mua sắm cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học; đồng thời, chú trọng bảo đảm giáo trình, tài liệu theo đúng quy định.
Bốn là, thực hiện có hiệu quả Thông tư liên tịch 123/2015/TTLT-BQP-BGDĐT-BLĐTBXH, nâng cao chất lượngliên kết giáo dục quốc phòng và an ninh giữa các trung tâm với các trường cao đẳng, đại học. Đây là hoạt động đặc thù của các trung tâm, vừa bảo đảm chất lượng đào tạo, vừa thuận lợi cho công tác quản lý, rèn luyện sinh viên tập trung theo nếp sống chính quy trong môi trường quân đội. Ngay từ năm thứ nhất, sinh viên đã được trang bị những kiến thức, kỹ năng cơ bản về quân sự, tạo hứng thú cho người học, nâng cao ý thức về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cho thế hệ trẻ. Để nâng cao chất lượng liên kết giáo dục quốc phòng và an ninh, các trung tâm cần tích cực, chủ động phối hợp chặt chẽ với các trường liên kết. Hằng năm, trước khi vào năm học, các trung tâm cần tổ chức hội nghị liên kết đào tạo giáo dục quốc phòng và an ninh để nghe ý kiến của các trường liên kết đánh giá chất lượng giáo dục – đào tạo của năm trước; thống nhất nội dung, chương trình, thời gian liên kết năm học tới; nắm phản hồi của sinh viên sau khi được học tập, rèn luyện tại trung tâm. Đối với các trường liên kết, cần cung cấp đầy đủ, thường xuyên danh sách sinh viên các khóa học, trình độ đào tạo, cùng tham gia xây dựng kế hoạch giáo dục quốc phòng và an ninh cho mỗi khóa. Trên cơ sở đó, các trung tâm xây dựng kế hoạch năm học, xác định rõ thời gian cho từng trường và gửi kế hoạch, nội quy để các trường phổ biến, quán triệt cho sinh viên, nhất là thời gian, quy chế, quy định trước khi về các trung tâm học tập. Ngoài ra, các trung tâm còn phải phối hợp với các trường liên kết nắm trình độ, nhận thức của sinh viên theo chuyên ngành đào tạo để có phương pháp giảng dạy, quản lý phù hợp, hiệu quả với từng chuyên ngành; thường xuyên trao đổi kết quả học tập, rèn luyện của từng sinh viên; tổ chức chặt chẽ việc giao, nhận sinh viên và giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh trong khóa học.
Giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho cán bộ, đảng viên là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta và là nội dung quan trọng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Vì vậy, cần phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh để nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đại tá LÊ THANH TRÌ, Trung tá LÊ MINH ĐẠT
_______________

1 – Quyết định 638/QĐ-TTg, ngày 21-5-2009 về “Phê duyệt Đề án thành lập trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh tại các nhà trường quân đội giai đoạn 2009 – 2015 và những năm tiếp theo”; Quyết định 412/QĐ-TTg, ngày 10-4-2012 về “Phê duyệt Quy hoạch hệ thống trung tâm giáo dục quốc phòng – an ninh sinh viên giai đoạn 2011 – 2015”; Quyết định 161/QĐ-TTg, ngày 30-01-2015 về “Phê duyệt Quy hoạch hệ thống trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh giai đoạn 2015 – 2020 và những năm tiếp theo”.
Nguồn: Tạp chí Quốc phòng toàn dân
 

Nửa thế kỷ giáo dục quốc phòng học sinh, sinh viên

NỬA THẾ KỶ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG HỌC SINH, SINH VIÊN
Tin an ninh quốc phòng
          Ngày 28/12/1961 Hội đồng chính phủ (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định số 219/CP về việc huấn luyện quân sự cho quân nhân dự bị và dân quân tự vệ, trong đó quy định: “Trong các trường đại học và các trường chuyên nghiệp trung cấp, việc học tập quân sự phải đặt thành một môn học chính. Sinh viên các trường đại học được huấn luyện theo chương trình đào tạo sĩ quan, học sinh các trường chuyên nghiệp trung cấp được huấn luyện theo chương trình đào tạo hạ sĩ quan”. Theo đó, môn học Huấn luyện quân sự phổ thông qua những chặng đường phát triển thành môn học Giáo dục quốc phòng và Giáo dục quốc phòng – an ninh trong hệ thống giáo dục quốc dân, đến nay vừa tròn nửa thế kỷ.
             I. Những kết quả đạt được
            1. Việc học tập quân sự (Huấn luyện quân sự phổ thông) trước đây – nay là giáo dục quốc phòng – an ninh cho học sinh, sinh viên trong những năm đất nước có chiến tranh, đã góp phần bồi dưỡng kiến thức quân sự, rút ngắn thời gian huấn luyện chiến sĩ mới, đáp ứng yêu cầu của chiến tranh chống Mĩ cứu nước và chiến tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc.
               Khi đất nước hoà bình lớp lớp thanh niên, sinh viên tình nguyện đến những nơi khó khăn, gian khổ cùng sát vai với bộ đội và nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị – xã hội của đất nước. Trong hội nhập nền kinh tế thế giới đội ngũ trí thức trẻ đang làm chủ khoa học kỹ thuật luôn ý thức nhiệm vụ xây dựng đất nước phải gắn liền với bảo vệ Tổ quốc.
             Ngoài việc nâng cao dân trí về quốc phòng, GDQP-AN góp phần giáo dục chính trị, tư tưởng sâu sắc cho học sinh, sinh viên trong phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, xây dựng ý thức trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc; giáo dục lòng tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc, xây dựng ý thức tổ chức kỉ luật, coi trọng nếp sống tập thể, cùng với các hoạt động khác góp phần đẩy lùi tiêu cực và tệ nạn xã hội.
           2. Qua mỗi giai đoạn cách mạng và sự phát triển của giáo dục đào tạo chương trình GDQP-AN cho học sinh, sinh viên đã được đổi mới nhiều lần cả nội dung và hình thức giảng dạy. Năm 1991, chuyển đổi chương trình từ Huấn luyện quân sự phổ thông sang môn học giáo dục quốc phòng đã có sự thay đổi cơ bản nội dung cho phù hợp với giáo dục thời bình, theo hướng tăng cường tri thức về quốc phòng-quân sự, giảm bớt thực hành kỹ năng.
              Đến năm 2007 thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới và Nghị định số 116/2007/NĐ-CP của Chính phủ về GDQP-AN, môn học giáo dục quốc phòng được chính thức đổi tên thành môn học GDQP-AN (kiến thức giáo dục an ninh được lồng ghép trong giáo dục quốc phòng). Môn học đã được khẳng định trong nhóm các môn học chung của trình độ đào tạo đại học, chuyên nghiệp và dạy nghề; trong chương trình văn hoá của các trường trung học phổ thông.
            Việc đánh giá kết quả học tập đã được thực hiện theo quy chế chung của các cấp học và quy chế môn học GDQP-AN. Sinh viên ĐH, CĐ kết thúc môn học có đủ điểm theo quy định được cấp chứng chỉ GDQP-AN, là một trong những điều kiện xét cấp bằng tốt nghiệp. Học sinh trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và trung học phổ thông kết quả học tập được tính điểm trung bình chung như các môn học khác.
           3. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học giáo dục quốc phòng trước đây chủ yếu phụ thuộc vào sự phối hợp giúp đỡ của các cơ quan quân sự địa phương, đơn vị quân đội. Khi thay đổi chương trình, đã có sự đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và đầu tư xây dựng hệ thống trung tâm GDQP-AN sinh viên.
          Danh mục thiết bị môn học GDQP-AN được ban hành và tổ chức thực hiện. Các trường từ THPT đến ĐH,CĐ cơ bản có đủ thiết bị dạy học, sách giáo khoa và giáo trình GDQP-AN đáp ứng yêu cầu nghiên cứu của giáo viên và học tập của học sinh, sinh viên.
            Có cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên GDQP-AN chuyên trách nên đã có 86% trường THPT trong cả nước thực hiện học theo phân phối chương trình, các trường khác xen kẽ giữa học tập trung và phân phối chương trình theo tiết/tuần.
            Các trường TCCN, ĐH,CĐ tự bảo đảm giảng dạy tại trường hoặc liên kết giảng dạy theo phần luồng của Bộ GD&ĐT. Hệ thống trung tâm GDQP-AN sinh viên đã được đầu tư xây dựng giai đoạn 1 đang phát triển giai đoạn 2 với mục tiêu đáp ứng 70% sinh viên vào học tập, rèn luyện tập trung tại trung tâm. Nhiều khoa giáo dục quốc phòng và trung tâm GDQP-AN sinh viên đã tích cực nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp giảng dạy và đánh giá kết quả học tập. Chất lượng giáo dục môn học vì thế  ngày càng được nâng cao, tăng cường tri thức quốc phòng, an ninh cho đội ngũ cán bộ trẻ.
          4. Đội ngũ giáo viên GDQP-AN luôn luôn đóng vai trò quyết định trong đổi mới và nâng cao chất lượng môn học. Từ năm 2001 Bộ GD&ĐT đã tổ chức đào tạo giáo viên giáo dục quốc phòng ngắn hạn và dài hạn tại các trường đại học và liên kết ở địa phương. Theo đó, các trường đã bước đầu tự chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên trong biên chế cơ hữu và thực hiện hợp đồng, thỉnh giảng.
         Để đáp ứng từng bước chuẩn hóa đội ngũ giáo viên GDQP-AN cả số lượng và chất lượng, đáp ứng quy mô GDQP-AN cho học sinh, sinh viên ngày càng tăng, năm 2010 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đào tạo giáo viên chuyên ngành GDQP-AN cho các trường THPT và TCCN, trung cấp nghề. Bộ GD&ĐT đang mở rộng đề án này để phát triển đội ngũ giáo viên GDQP-AN cho các trường ĐH,CĐ và trung tâm GDQP-AN sinh viên.
           Đội ngũ giảng viên sĩ quan do Bộ Quốc phòng biệt phái ra các trường ĐH, đang từng bước được kiện toàn về tổ chức và chất lượng. Sự phối hợp có hiệu quả của Bộ Quốc phòng với Bộ GD&ĐT đã hình thành trong nhiều năm đội ngũ giảng viên sĩ quan biệt phái thực sự làm nòng cốt giảng dạy GDQP-AN và quản lý chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ, với chức năng của cơ quan chuyên môn và quản lý trung tâm GDQP-AN sinh viên.
           5. Hệ thống văn bản pháp quy về GDQP-AN cho học sinh, sinh viên đã được hoàn thiện trên các lĩnh vực, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với nhiệm vụ giáo dục cho thế hệ trẻ học sinh, sinh viên.
          Đặc biệt, từ năm 2001 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII ban hành Chỉ thị số 62-CT/TW và năm 2007 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, cho thấy tầm quan trọng, vị trí, yêu cầu GDQP-AN toàn dân, trong đó có nhiệm vụ GDQP-AN cho học sinh, sinh viên.
           Thành quả GDQP-AN cho học sinh, sinh viên trong nửa thế kỷ qua là rất lớn; môn học có vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, có ý nghĩa đặc biệt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, GDQP-AN cho học sinh, sinh viên còn có những hạn chế cần được khắc phục nhanh chóng.
          II. Những hạn chế
          Chuyển biến về nhận thức ở một số cán bộ quản lý và một bộ phận học sinh, sinh viên còn chậm so với yêu cầu mục tiêu môn học và nhiệm vụ GDQP-AN trong tình hình mới. Xem nhẹ và tìm cách thanh toán môn học có ở một số trường và một bộ phận học sinh, sinh viên. Những suy nghĩ đơn giản về môn học đã dẫn đến tổ chức thực hiện tùy tiện nhiệm vụ GDQP-AN, tính toán hiệu quả kinh tế, chỉ thấy lợi ích trước mắt chưa thấy lợi ích chung và lâu dài. Vì vậy có trường không coi GDQP-AN là môn học mà cho rằng đó là nhiệm vụ quốc phòng, thuộc Bộ Quốc phòng.
           Tạo nguồn, xây dựng đội ngũ giáo viên chuyên trách, có đủ năng lực thực hiện giảng dạy ở tất cả các cấp học còn chậm và không đồng bộ. Nhiều trường hiện nay thiếu giáo viên trầm trọng, dẫn đến liên kết giảng dạy không đúng đối tượng, trình độ, không kiểm soát được chương trình.
          10 năm quy hoạch và xây dựng hệ thống trung tâm GDQP-AN sinh viên (2001-2010) với chỉ tiêu đưa 70% sinh viên tuyển mới vào học GDQP-AN trong trung tâm nhưng đến nay mới đạt 45% quy mô sinh viên năm thứ nhất; trong đó sinh viên thực tế được học tập, rèn luyện tại trung tâm chỉ chiếm 30% (bằng tỷ lệ được xác định năm 2005).
           Như vậy, tốc độ xây dựng trung tâm quá chậm; tổ chức biên chế giảng viên của trung tâm đến nay vẫn chưa có, việc luân chuyển, bổ sung giảng viên sĩ quan biệt phái và tạo nguồn giảng viên đến nay không đáp ứng nhu cầu tối thiểu. Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan trong đó việc đầu tư kinh phí nhỏ giọt, hạn chế; quy mô sinh viên tăng nhanh, đội ngũ giảng viên thiếu trầm trọng trong nhiều năm nay chưa được tập trung giải quyết.
           III. Cơ hội và giải pháp
           Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ ra phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo, là cơ hội thuận lợi nhất đổi mới GDQP-AN cho học sinh, sinh viên, gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục đào tạo với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, sự nhiệp CNH, HĐH đất nước trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa.
           Đảng và Nhà nước đang chủ trương “luật hóa” nhiệm vụ GDQP-AN. Theo kế hoạch đến năm 2014 Quốc hội khóa XIII sẽ thông qua Luật GDQP-AN. Đây là những điều kiện cơ bản, có tính pháp lý cao đối với môn học và nhiệm vụ GDQP-AN cho học sinh, sinh viên. Để thực hiện đúng, đủ mục tiêu, yêu cầu môn học GDQP-AN, gắn kết chặt chẽ trong chương trình giáo dục đào tạo của các cấp học, trình độ đào tạo các cơ quan quản lý, chỉ đạo, các đơn vị, nhà trường cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau đây:
          Một là, phát triển đội ngũ giáo viên GDQP-AN, xây dựng cơ chế chính sách sử dụng đội ngũ giáo viên phù hợp với quyền tự chủ của các trường
          Để thực hiện giải pháp này cán bộ, lãnh đạo, quản lý trong ngành giáo dục đào tạo và các đơn vị phối hợp cần tăng cường nhận thức về nhiệm vụ GDQP-AN; quán triệt sâu sắc Chỉ thị Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị; kiện toàn đội ngũ giáo viên GDQP-AN chuẩn về kiến thức, thành thạo kỹ năng và có đủ số lượng với quy mô học sinh, sinh viên ngày càng tăng.
           Tập trung chỉ đạo quyết liệt để thực hiện tốt Quyết định số  472 /QĐ-TTg ngày 12/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án “Đào tạo giáo viên GDQP-AN cho các trường THPT, TCCN và trung cấp nghề giai đoạn 2010 – 2016”. Mở rộng đề án phát triển đội ngũ giảng viên GDQP-AN cho các trường ĐH,CĐ. Hoàn thiện tổ chức biên chế đội ngũ giảng viên sĩ quan biệt phái, tiếp tục làm nòng cốt giảng dạy tại trung tâm GDQP-AN sinh viên và các trường đại học. Gắn kết chặt chẽ công tác quản lý giảng viên sĩ quan biệt phái giữa các cơ sở giáo dục đại học với học viện, nhà trường quân đội. Tạo hành lang cơ chế, chính sách sử dụng đội ngũ giáo viên, giảng viên GDQP-AN đã được đào tạo cơ bản.
          Hai là, đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho môn học và phát triển trung tâm GDQP-AN sinh viên
          Đầu tư mạnh cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để ứng dụng rộng rãi công nghệ tin học trong giáo dục, đổi mới phương pháp giảng dạy GDQP-AN. Có chính sách hợp lý và hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp quốc phòng sản xuất các thiết bị chuyên dụng, tạo cơ chế thích hợp trong tổ chức mua sắm giữa nhà sản xuất và đơn vị sử dụng.
           Tạo nguồn vốn hợp pháp để hoàn thiện giai đoạn 2 phát triển hệ thống trung tâm GDQP-AN sinh viên đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Gắn kết chặt chẽ hệ thống trung tâm GDQP-AN do Bộ GD&ĐT quản lý với hệ thống trung tâm do Bộ Quốc phòng quản lý, để đến năm 2015 có 70% sinh viên được phân luồng vào học tập, rèn luyện tại trung tâm. Xây dựng trung tâm GDQP-AN thành môi trường văn hóa – quân sự; từng bước thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học quân sự, đào tạo sĩ quan dự bị, đào tạo giảng viên GDQP-AN.
           Ba là, đổi mới cơ chế quản lý chỉ đạo, điều hành; đổi mới chương trình và phương pháp GDQP-AN
           Tăng cường năng lực và đổi mới công tác quản lý của các cơ quan chủ quản và cơ quan phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ GDQP-AN. Cải cách hành chính mạnh mẽ trong công tác quốc phòng, an ninh, tránh tình trạng chồng chéo trong công tác quản lý, chỉ đạo; gắn bó mật thiết, chặt chẽ môn học đặc thù (môn học được luật hóa) với việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo trong thời gian tới.
           Sửa đổi chương trình GDQP-AN các cấp học và trình độ đào tạo trên cơ sở bổ sung kiến thức giáo dục đào tạo trong thời kỳ hội nhập và thực tiễn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tăng thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, sinh viên; kết hợp mở rộng đào tạo trực tuyến, giáo dục trực tuyến với các phương pháp dạy học tích cực khác để góp phần thực hiện tốt mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực tiên tiến cho sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.